Giải mã gene người Việt: Chúng ta là ai?
Tổ tiên các dân tộc Thái, Tày, Nùng… ngày nay có mối quan hệ với tổ tiên của người Kinh hoặc các tộc người khác ra sao? Người Việt có nguồn gốc từ đâu là câu hỏi không dễ trả lời.
Ảnh: IT
Thực hiện nghiên cứu gene để phân tích nhân chủng học tiến hóa người Việt Nam, Viện Nghiên cứu hệ gene, thuộc Viện Hàn lâm KHCN đã thực hiện đề tài “Giải trình tự và xây dựng hoàn chỉnh hệ gene người Việt Nam đầu tiên”.
GS.TS Nông Văn Hải, nguyên Viện trưởng sáng lập Viện Nghiên cứu hệ gen, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam đã có nghiên cứu góp phần không nhỏ trả lời câu hỏi này.
Giải mã hệ gene đi tìm nguồn gốc
Nhiều năm nay, các nhà dân tộc học và khảo cổ học đã đưa ra một số giả thiết rằng cộng đồng các dân tộc Việt Nam ngày nay, dù khác nhau nhưng từng có mối quan hệ gần gũi trong thời kỳ dựng nước và suốt chiều dài lịch sử. Nhưng ngoài các giả thuyết dân tộc học và khảo cổ học, liệu có cách lý giải nào khác? Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu gene người để chứng minh mối quan hệ, luồng di cư giữa các tộc người ở thời cổ đại, từ đó hé lộ dần bức tranh quan hệ giữa các dân tộc.
Ở Việt Nam, những nghiên cứu như vậy còn hết sức mới mẻ và sơ khai, do giải mã gene các di cốt cổ được khai quật từ thời Đông Sơn và trước đó chưa nhiều, giải mã hệ gen ở người hiện đại cũng hầu như mới chỉ tập trung vào người Kinh nên chưa thể thấy hết được được tính đa dạng.
Trong bối cảnh đó, nghiên cứu về đa dạng di truyền hệ gene người Việt Nam, khảo sát lấy mẫu ở 22 tộc người khác nhau của GS.TS Nông Văn Hải và cộng sự đã góp phần mang lại cơ sở dữ liệu quý giá đầu tiên để lý giải mối quan hệ giữa các dân tộc ngày nay và tại thời điểm khởi nguồn lịch sử Việt Nam. Những điều này đã được GS.TS Nông Văn Hải trình bày, giải đáp qua buổi tọa đàm “Đa dạng di truyền và nguồn gốc người Việt Nam”.
Thực hiện nghiên cứu gene để phân tích nhân chủng học tiến hóa người Việt Nam, Viện Nghiên cứu hệ gene, thuộc Viện Hàn lâm KHCN đã thực hiện đề tài “Giải trình tự và xây dựng hoàn chỉnh hệ gene người Việt Nam đầu tiên” làm “trình tự tham chiếu” và “bước đầu phân tích nhân chủng học tiến hóa người Việt Nam”, và giải mã 600 hệ gene ty thể hoàn chỉnh từ các cá thể của 17 dân tộc ở Việt Nam. Tuy nhiên, tại tọa đàm, GS.TS Nông Văn Hải, Nguyên Viện trưởng Viện NC Hệ gene cho biết, “đây là một vấn đề cực kỳ phức tạp”, và ngành gene hay các ngành khác cũng “chỉ như thầy bói xem voi”.
Video đang HOT
Không chỉ người Việt có nhu cầu tìm nguồn gốc, ngay gần nước ta, Thái Lan, Trung Quốc cũng đang tìm nguồn gốc chính mình… Nhiều nước đã xây dựng bộ dữ liệu gene rất đồ sộ, thậm chí có “câu lạc bộ các nước giải trình tự 100.000 đến 1 triệu bộ gene”. Còn với số lượng mẫu ít như Việt Nam hiện có, khó có thể khẳng định được điều gì về nguồn gốc ngay tại thời điểm hiện nay. “Tất cả các lĩnh vực, lịch sử, ngôn ngữ, địa lý, các ngành khoa học nói chung… cùng nỗ lực mới dần dần làm le lói câu trả lời cho câu hỏi chúng ta là ai, chúng ta từ đâu đến”, GS.TS Nông Văn Hải cho hay.
Con người có chung nguồn gốc
Việc phân tích hệ gene ở người hiện tại có thể giúp khẳng định tính đa dạng di truyền của các tộc người hiện nay. Ví dụ có thể cho biết những đặc điểm chung giữa người Kinh, Tày, Thái… so với các tộc người cụ thể khác trong cùng một nhóm tộc người (phân loại theo ngữ hệ) của mình hoặc các dân tộc thuộc ngữ hệ khác.
Nghiên cứu của GS.TS Nông Văn Hải cùng cộng sự đã chỉ ra rằng giữa các dân tộc có lịch sử di truyền, nguồn gốc chung nào đó và có sự giao thoa về mặt di truyền chứ không có một dân tộc “thuần chủng”. Nghĩa là, các dân tộc ngày nay đều có chung nguồn gốc, chỉ có điều là dân tộc đó “tách” ra sớm hay muộn chứ không có chuyện dân tộc đó cách xa hay gần so với các dân tộc khác.
Để thực hiện đề tài, GS Nông Văn Hải đã hợp tác với giáo sư người Mỹ Mark Stoneking, Viện Max Planck về Nhân chủng học tiến hóa, CHLB Đức, người dày dạn kinh nghiệm hợp tác phân tích hệ gene của nhiều tộc người, từ Thái Lan, Philipines đến các dân tộc ở châu Phi. Nhóm nghiên cứu khảo sát lấy mẫu gene các tộc người trên quy mô lớn nhất từ trước tới nay ở Việt Nam – hơn 600 người thuộc 22 dân tộc ở năm ngữ hệ chính ở Việt Nam và Đông Nam Á lục địa (gồm các ngữ hệ: Nam Á, Thái – Kadai, Hmông-Miền, Nam Đảo và Hán – Tạng), đồng thời phân tích cùng với dữ liệu hệ gene của nhóm cư dân hiện đại lân cận và các tập dữ liệu gene của người ở Đông Nam Á cổ đại đã được công bố trước đây trong cơ sở dữ liệu hệ gene quốc tế.
Nhưng trong trình tự hệ gene với hơn 3 tỉ “ký tự” của mỗi người, làm sao để xác định được sự giống và khác nhau giữa các tộc người theo cách hợp lý nhất? Nhóm phân tích dữ liệu đa hình nucleotide đơn – SNP (single nucleotide polymorphisms), trong đó tập trung đi sâu phân tích hệ gene sử dụng công nghệ mới gene CHIP (gồm khoảng 600.000 điểm thể hiện sự khác biệt về mặt di truyền giữa các cá thể). Đây cũng là những công nghệ mà các nhóm nghiên cứu đa dạng di truyền các tộc người trên thế giới đang sử dụng chủ yếu, bởi vì 99,9% trình tự hệ gene là hoàn toàn giống nhau giữa các cá thể, tộc người trong toàn bộ loài người, GS Nông Văn Hải cho biết.
Kết quả phân tích, được xuất bản trên tạp chí Molecular Biology and Evolution5 (Q1, IF~15, thứ 2 về sinh học tiến hóa) cho thấy “tính đa dạng tộc người phân theo ngữ hệ đã phản ánh các nguồn gốc khác nhau về đa dạng di truyền ở Việt Nam”, nghĩa là trong 22 dân tộc được khảo sát, “dân tộc này cũng có chung các đặc điểm về gene của dân tộc khác trong cùng ngữ hệ hoặc khác ngữ hệ”, GS Nông Văn Hải giải thích. Chẳng hạn, nhìn các bảng số liệu phân tích mức độ lai hỗn hợp (Admixture) có thể thấy rõ: các dải màu sắc khác nhau quy ước cho các tộc người hay ngữ hệ khác nhau cho thấy tình trạng “lai” giữa các dân tộc là phổ biến và hiển nhiên.
Sự thật sau kỹ thuật khoan hộp sọ của tổ tiên con người
Được biết đến như một cách chữa bệnh về thần kinh và đau đầu, trepanation hay còn gọi là khoan hộp sọ còn ẩn chứa nhiều bí ẩn liên quan đến tín ngưỡng và văn hóa.
Cách đây 7.000 năm, trepanation ra đời với mục đích y học và gắn liền với thời kỳ văn minh đồ đồng. Kỹ thuật khoan hộp sọ được tìm thấy chủ yếu tại Hy Lạp cổ đại, Bắc và Nam Mỹ, Châu Phi, Polynesia và Viễn Đông. Tuy nhiên, vào năm 1997, các nhà khảo cổ học tại Nga mà đại diện là Elena Batieva đã đặt ra giả thuyết trepanation thực chất còn mang theo ý nghĩa của văn hóa, tín ngưỡng. Dù vậy, các dấu vết tìm được dẫn cô đi vào ngõ cụt.
Những cái chết vì khoan sọ
Trước khi quyết định từ bỏ, Batieva quyết định tìm kiếm thêm tại các hồ sơ khảo cổ học chưa từng được công bố tại Nga dù hy vọng khá mong manh. Thật đáng ngạc nhiên, chúng đã mang đến tín hiệu tốt. Đó chính là ghi chép về hộp sọ của hai phụ nữ trẻ có dấu hiệu trepanations obelion (khoan tại điểm tắc nghẽn). Những trường hợp này được phát hiện vào năm 1980 và 1992. Hai bộ hài cốt đều nằm cách Rostov-on-Don bán kính 50 km và không có bất kỳ căn bệnh nào liên quan đến não bộ hay thần kinh.
Một bộ xương được tìm thấy với vết khoan trên hộp sọ. Ảnh: Mihajlo Maricic.
Điều này đã mang lại cho Batieva tổng cộng 8 trường hợp hộp sọ bị khoan khác thường. Bước đầu cô xác định những người này sống cùng một niên đại.
Một thập kỷ sau, câu trả lời dần được hé lộ.
Năm 2011, một nhóm khảo cổ học quốc tế công bố kết quả phân tích trên 137 bộ xương người được khai quật tại ba địa điểm độc lập nằm ở đông nam Rostov-on-Don khoảng 500 km, gần biên giới Gruzia ngày nay. Các nhà khảo cổ học đến để tìm câu trả lời cho mẫu số chung về sức khỏe của cư dân thời tiền sử tại khu vực này. Nhưng trong số 137 hộp sọ, họ đã tìm thấy 9 trường hợp "bị đục lỗ". Và 5 trong số đó là kết quả của kỹ thuật trepanation.
Các lỗ khoan được tạo ra ở nhiều vị trí khác nhau như mặt trước, mặt bên hộp sọ. Nạn nhân đều có dấu hiệu bị chấn thương vật lý. Điều này giúp kết luận trepanation được thực hiện với mong muốn y học. Nhưng 4 trong số đó có sức khỏe hoàn toàn bình thường và bị "trepanation obelion".
Rất tình cờ, một trong các thành viên, Julia Gresky, nhà nhân chủng học của Viện Khảo cổ học Đức (DAI), đã đọc bài báo của Batieva mô tả về những trepan bất thường tại vùng Rostov-on-Don. Họ đã hợp tác cùng nhau mô tả 12 trường hợp được phát hiện và công bố vào tháng 4/2016 trên Tạp chí Nhân học Vật lý Mỹ. Gresky, Bateiva và các đồng nghiệp lập luận rằng sự xuất hiện bất thường và tập trung tại một khu vực cho thấy dấu hiệu của nghi thức tín ngưỡng tại nơi đó.
Ký ức xã hội sau những vết khoan
Maria Mednikova (Viện Hàn lâm Khoa học Nga tại Moscow), một chuyên gia hàng đầu về kỹ thuật khoan hộp sọ tin rằng các trường hợp kỳ lạ đã được tìm thấy là hành động nhằm nhận lấy sự khác thường của đáng tối cao. Nói cách khác, những người sở hữu vết khoan tại điểm tắc nghẽn là minh chứng giúp họ vượt khỏi đẳng cấp với thành viên khác trong cộng đồng.
Cận cảnh những vết khoan bất thường trên hộp sọ được tìm thấy. Ảnh: Photo Researchers Inc.
Chúng ta chỉ có thể suy đoán tại sao 12 người rõ ràng vẫn rất khỏe mạnh lại thực hiện một thao tác bất thường như vậy. Nhưng nhờ vào những lỗ hổng này, các nhà nghiên cứu có thể suy ra số phận đáng ngạc nhiên của cư dân tiền sử sau cuộc "phẫu thuật".
Một trong số những mẫu vật là thiếu nữ chưa đầy 25 tuổi. Phản ứng còn lại đã cho thấy cô tử vong ngay sau khi thao tác trepanation obelion được thực hiện hoặc trong lúc cô loay hoay tìm cách thích nghi với cảm giác đau đớn.
Tuy nhiên, chủ sở hữu của các hộp sọ khác dường như đã sống sót sau tác động khác thường này. Hộp sọ của họ cho thấy xương xung quanh các cạnh của lỗ trepanation có dấu hiệu chữa lành mặc dù không bao giờ lấp đầy được vết khoan.
Hộp sọ của người đàn ông khoảng 30 - 35 tuổi, một trong năm người trong ngôi mộ tập thể. Lỗ hổng có dấu hiệu được chữa lành. Ảnh: Viện Khảo cổ Đức (DAI).
Ba trong số 12 hộp sọ có dấu hiệu chữa lành nhẹ xung quanh lỗ trepanation, cho thấy chủ nhân của chúng chỉ sống sót được khoảng 2- 8 tuần sau khi phẫu thuật. Trong đó có hai người phụ nữ ở độ từ 20 - 35 tuổi và một người 50 - 70 tuổi không xác định được giới tính. Tám hộp sọ khác cho thấy sự chữa lành khó tin. Dựa trên những kiến thức về phục hồi xương cốt hiện nay, những cá nhân này có thể đã sống sót ít nhất 4 năm sau vết khoan.
Cho đến nay, câu trả lời chính xác về bí ẩn đằng sau 12 hộp sọ với lỗ khoan điểm tắc nghẽn vẫn là một bài toán chưa tìm ra lời giải. Người ta vẫn tranh luận rằng chẳng có gì bất thường tại vị trí khoan này. Nói cách khác, trepanation thực chất chỉ là kỹ thuật y học đơn thuần của người cổ đại khi chưa có sự phát triển của văn minh hiện đại.
Nhưng cũng có thể Batieva và các đồng nghiệp của cô ấy đã đúng. Nếu những nạn nhân thực hiện khoan hộp sọ vì một đức tin tín ngưỡng thì có thể phần nào đoán ra lợi ích "khổng lồ" mà họ mong muốn nhận được khi bất chấp thực hiện thao tác đau đớn này.
Thiên Nhan
Các nhà khoa học Nga thử nghiệm virus có thể tiêu diệt tế bào ung thư Các nhà khoa học Nga cho biết, giai đoạn đầu tiên của các thử nghiệm, được thiết kế để chứng minh rằng loại thuốc này không gây hại cho con người, có thể kết thúc sớm nhất là vào giữa năm 2022. Các nhà khoa học thuộc Viện Sinh hoá và Y học cơ bản của Viện Hàn lâm Khoa học Nga đã...