Giấc mơ về ‘xã hội không tiền mặt’ sắp trở thành hiện thực ở các đô thị lớn tại Việt Nam?
Theo ông Nguyễn Mạnh Tường – Tổng Giám Đốc MoMo, mục tiêu quan trọng của của MoMo trong thời gian tới là sẽ thuyết phục các cô chú bán hủ tiếu – bún bò ở lề đường chấp nhận thanh toán online.
Cùng chung mục tiêu, VNPT Money lại nhắm tới các tiểu thương ở trong các chợ. Còn SmartPay cũng tuyên bố sẽ thuyết phục được 325.000 cửa hàng đặt thiết bị SmartPOS đến 2025.
Với sự giúp sức của Covid-19, tiến trình đi tới mục tiêu ‘ xã hội không tiền mặt’ đã có những bước tiến dài và đó chính là bệ đỡ để các ‘tay chơi’ lớn ở thị trường này quyết định phải làm thật quyết liệt trong thời gian tới.
Sau khi đã thành công thuyết phục các chuỗi và các cửa hàng quy mô lớn cài đặt app hoặc thiết bị của mình, ‘kỳ lân’ MoMo, ‘người mới’ VNPT Money và SmartPay đang dắt tay nhau ‘tấn công’ các tiểu thương bán hàng ở lề đường hoặc ở chợ.
MoMo và VNPT Money
” Thanh toán không tiền mặt ở Việt Nam đang khá bùng nổ, thông qua các báo cáo thị trường và tăng trưởng của MoMo. Về số lượng khách hàng, MoMo hiện nay có hơn 31 triệu người dùng. Có một vài yếu tố thúc đẩy sự tăng trưởng đó.
Một là, sự thúc đẩy mạnh mẽ của Ngân hàng Nhà Nước. Trước đây, muốn dùng MoMo phải mở tài khoản ngân hàng, ra chi nhánh nhưng bây giờ mọi người có thể mở tài khoản ngân hàng ngay trên ứng dụng MoMo. Cụ thể: trong vòng năm nay và năm sau, phần lớn các ngân hàng sẽ kết nối với MoMo. Sự thay đổi đột phá về mặt tư tưởng và hành động của ngành ngân hàng đã góp phần định hướng cho thanh toán không tiền mặt.
Ngoài ra, VietQR cũng miễn phí chuyển khoản, phận sự của các cơ quan chức năng, ngân hàng và fintech là cùng thúc đẩy dịch vụ này. Dịch bệnh cũng là khó khăn nhưng cũng là sự thúc đẩy để mọi người quen với online, thanh toán không tiền mặt. Thời điểm xã hội Việt Nam sẽ dần tiến tới xã hội không tiền mặt ít nhất tại các thành phố lớn, đang tới rất gần“, ông Nguyễn Mạnh Tường – Tổng Giám Đốc MoMo chia sẻ trong buổi ký kết hợp tác với Starbucks Việt Nam.
Ông Nguyễn Mạnh Tường – Tổng Giám Đốc MoMo
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Mạnh Tường thì cơ hội luôn đi liền với thách thức đến từ thị trường và nội tại doanh nghiệp.
Với thị trường, thách thức chính là việc tiếp tục tạo niềm tin cho khách hàng trong việc sử dụng dịch vụ tài chính. Vì mọi người cũng biết là nhiều khi khách hàng chấp nhận dùng, nhưng vẫn còn nhiều lo lắng. Những lo lắng đó đôi khi không có thật nhưng họ vẫn cứ lo! Việc chia sẻ thông tin, làm rõ hơn vấn để mọi người hiểu thì sẽ bớt lo hơn. Chia sẻ thông tin và hướng dẫn khách hàng là trách nhiệm MoMo và nhiều bên liên quan.
Còn về thách thức nội tại của MoMo, đó là chuyện MoMo có đủ nhanh và quyết liệt để cung cấp dịch vụ đa dạng hơn cho khách hàng không. Ví dụ như làm sao để các cửa hàng nhỏ lẻ, quán hủ tiếu, phở trở thành điểm chấp nhận thanh toán. Lúc đó, mọi người đến đâu, ăn phở, hủ tiếu cũng có thể dễ dàng thanh toán bằng MoMo. Bởi nếu khách hàng có thể có nhu cầu thanh toán qua ví điện tử, nhưng các cô chú không chấp nhận cài đặt thì rất khó!
Cuối năm 2021, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) trở thành đơn vị đầu tiên được Chính Phủ cấp phép thí điểm dịch vụ Mobile Money trên cả nước. Với VNPT Money, mọi khách hàng sử dụng thuê bao VinaPhone có thể xem nó như một tài khoản ngân hàng, với đầy đủ các chức năng như: Nạp, rút, chuyển tiền và thanh toán các dịch vụ mà không cần dùng tiền mặt.
Còn theo lời giới thiệu từ VNPT, thì VNPT Money là hệ sinh thái tài chính số toàn diện, bao gồm các dịch vụ tiền di động, ví điện tử và tài khoản ngân hàng. VNPT Money đặt mục tiêu có 500.000 điểm thanh toán trên toàn quốc trong năm 2022.
Thời gian gần đây, VNPT Money đang cố gắng xâm nhập sâu vào các chợ ở nhiều địa phương thông qua dự án “Chợ công nghệ số – chợ 4.0″.
VNPT Quảng Ninh đã mở miễn phí các điểm chấp nhận thanh toán và cài đặt ứng dụng VNPT Money cho hơn 500 hộ kinh doanh tại chợ Cái Dăm – phường Bãi Cháy – TP Hạ Long – Quảng Ninh.
Video đang HOT
VNPT Money thâm nhập chợ An Thới – TP Cần Thơ. Ảnh: Lao Động
Còn tại chợ An Thới – phường An Thới – quận Bình Thủy – TP Cần Thơ, mới đây, sau 1 tháng VNPT Cần Thơ triển khai thí điểm, đã có gần 200 tiểu thương chấp nhận thanh toán với hơn 700 khách hàng sử dụng ví. VNPT Cần Thơ cũng đã phát triển 38 điểm nạp, rút tiền ví VNPT Money trên tất cả quận, huyện của thành phố.
Cũng trong đầu tháng 9, VNPT Lâm Đồng đã hỗ trợ mở tài khoản mới tại các ngân hàng cho 200 tiểu thương; mở ví điện tử VNPT Money cho 305 tiểu thương tại chợ Đà Lạt.
SmartPay
” Như tôi nhiều lần đề cập, phân khúc 4 triệu nhà bán hàng nhỏ và vừa ở Việt Nam chiếm 50% doanh thu bán lẻ vào năm 2021, khoảng 210 tỷ USD. Trong đó doanh số các tiểu thương chiếm 100 tỷ USD. Phân khúc này vẫn tiếp tục tăng trưởng hàng năm khoảng 10%. Trong 7 năm tới, con số đó sẽ tăng từ 100 đến 200 tỷ USD.
Nếu như trước đây, các ngân hàng lớn ở Việt Nam không để ý đến nhóm đối tượng này thì bây giờ điều đó đã thay đổi. Khi SmartPay bắt đầu tập trung vào các tiểu thương, nhiều tổ chức tài chính khác cũng đang làm như vậy vì họ nhìn thấy tiềm năng của phân khúc này. Những người buôn bán nhỏ từng không được quan tâm vì họ tiến hành kinh doanh chủ yếu bằng tiền mặt.
Khi các doanh nghiệp này chuyển từ tiền mặt sang không dùng tiền mặt, họ sẽ dễ tiếp cận hơn với các dịch vụ tài chính tiên tiến“, ông Marek Forysiak – Chủ tịch SmartPay chia sẻ lý do vì sao doanh nghiệp mình chỉ tập trung vào phân khúc này.
Ông Marek Forysiak – Chủ tịch SmartPay
Ngay từ khi thành lập năm 2019, SmartPay đã lựa chọn hướng đi khác biệt là đồng hành cùng sự phát triển của hàng triệu tiểu thương Việt Nam. Cho đến bây giờ, SmartPay vẫn là đơn vị “đầu tiên và duy nhất” đầu tư và hỗ trợ cho các nhà bán hàng nhỏ lẻ – những người đang bị bỏ quên trong quá trình số hóa.
Tính đến tháng 7/2022, SmartPay đã hỗ trợ thành công hơn 740.000 nhà bán hàng nhỏ lẻ trên toàn quốc tiếp cận với hơn 2 triệu khách hàng là người dùng ví SmartPay, cùng 40 triệu khách hàng đến từ các ngân hàng đã liên kết. Theo ước tính nhu cầu thiết bị POS đến quý II/2022 là 1,2 triệu thiết bị. Mục tiêu của SmartPay trong 3 năm tới là cung cấp thêm 325.000 thiết bị POS – chiếm gần 30% tổng thị phần.
Tuy nhiên, SmartPay chỉ đơn thuần là máy POS hoặc ví điện tử mà nó tích hợp rất nhiều dịch vụ/sản phẩm khác nhau.
Dịch vụ của SmartPay chấp nhận tất cả các hình thức thanh toán: qua thẻ debit/credit, thanh toán qua ví điện tử, quét mã QR, thanh toán chạm. Điều này giúp nhà bán hàng phục vụ nhu cầu đa dạng của khách mua, quản lý thu chi dễ dàng chỉ với 1 thiết bị duy nhất.
Nó còn giúp nhà bán hàng gia tăng doanh thu dễ dàng: nhờ việc cung cấp cho khách hàng các dịch vụ cộng thêm như thanh toán hóa đơn (điện, nước, internet,…), nạp thẻ điện thoại, bảo hiểm, thanh toán khoản vay, trả góp 0%, mua trước trả sau được cung cấp bởi SmartPay.
SmartPay cũng mở ra cơ hội tiếp cận với nguồn vốn mà không cần tài sản đảm bảo với sự đồng hành của các đối tác lớn như VP Bank, FE Credit, CIMB. Ngoài ra, nhằm hỗ trợ tiểu thương Việt tiếp cận được nhiều nguồn vốn hơn nữa, SmartPay sẽ triển khai hợp tác chiến lược với Kasikorn Bank (ngân hàng thương mại hàng đầu Thái Lan).
SmartPay dễ dàng sử dụng, phù hợp với mọi loại hình kinh doanh: với 2 phiên bản: SmartPOS Mini – nhỏ gọn, dễ di chuyển và SmartPOS Pro – phiên bản cao cấp hơn tích hợp tính năng in hóa đơn trực tiếp. Ngoài ra, nhà bán hàng không cần mua máy, chỉ cần thuê với giá rất rẻ, tầm 8.000 đồng/ngày, 240.0000/tháng.
Ban lãnh đạo của SmartPay
Máy SmartPOS không phải đã xuất hiện lâu trên thị trường, mà vẫn là khái niệm mới vài năm trở lại đây và chưa phổ biến lắm. Kể cả ở thị trường Việt Nam, khi đi siêu thị và ở các điểm mua sắm lớn thì các máy POS chủ yếu phục vụ cho việc thanh toán mà chưa có tích hợp nhiều tiện ích như máy SmartPOS.
Cũng theo ông Marek Forysiak, thứ khiến SmartPay khác biệt sơ với các nhà cung cấp khác trên thị trường, họ luôn lấy tiểu thương – như các cô chú bán hủ tiếu/bún/phở hoặc hàng rong ngoài đường làm trọng tâm.
SmartPay chỉ tập trung cung cấp, phát triển và thiết kế các giải pháp cho các doanh nghiệp nhỏ, vừa và nhỏ, trong khi các ngân hàng và đơn vị tài chính khác phục vụ nhiều phân khúc khác nhau – chắc chắn sẽ có sự cạnh tranh và phân tán nguồn lực. Đó sẽ là điểm khác biệt nhất của SmartPay trong 5 năm tới.
” Chưa hết, chúng tôi biết rằng: giao dịch kinh doanh trung bình của các tiểu thương chỉ dao động từ 1-2 USD (khoảng 20.000 – 50.000 đồng). Do đó, khi chúng tôi nghĩ về lợi thế cạnh tranh của mình (điều mà tôi đã nghĩ đến từ ngày thành lập doanh nghiệp này) sẽ là: chúng tôi phải có khả năng phục vụ phân khúc này với chi phí càng gần 0 càng tốt.
Các tổ chức tài chính lớn khác không thể xử lý các giao dịch nhỏ đó (ví dụ chỉ khoảng 5.000 – 15.000 VND) với cùng mức chi phí mà SmartPay có thể thực hiện được”, Chủ tịch SmartPay nêu cụ thể.
Ở khía cạnh khác: SmartPay đã nghiên cứu và nhận thấy tới quý II/2022, Việt Nam có khoảng 300.000 thiết bị POS (theo thống kê của Nhà nước). Một tháng, giao dịch bình quân của 1 máy POS sẽ tầm 1,6 triệu đồng và 1 tháng 1 máy POS sẽ có trung bình 134 giao dịch. Điều này chứng tỏ các máy POS đang được đặt chủ yếu ở những cửa hàng lớn với lượng giao dịch và giá trị giao dịch khá cao.
Trong khi đó, các tiểu thương thường có nhiều giao dịch buôn bán nhưng giá trị không phải quá cao. Theo nhu cầu thị trường, để toàn bộ Việt Nam có được một hạ tầng thanh toán không tiền mặt toàn diện thì cần khoảng 1,2 triệu máy POS, nhưng chủ yếu ở hai thành phố lớn là TP.HCM và Hà Nội.
SmartPay mong muốn giấc mơ về ‘xã hội không tiền mặt’ có thể xảy ra ở 63 tỉnh thành chứ không chỉ riêng hai thành phố lớn nói trên. SmartPay đã làm việc với các đối tác bán lẻ và các đối tác ngân hàng và sẽ mở rộng và triển khai các dịch vụ của mình cho nên tới 2025. Đó là lý do họ tin mình sẽ đạt được con số đặt ra – cung cấp thêm 325.000 thiết bị POS trong 3 năm tới.
Người máy phiên bản đời thực: Người đàn ông này đã đeo giao diện não-máy tính hơn 7 năm
Suốt thời gian qua, thiết bị cấy ghép này đã cho phép anh điều khiển máy tính và chân tay giả chỉ bằng trí óc.
Nathan Copeland đôi khi nghĩ mình là một người máy.
Người đàn ông 36 tuổi này đã sống với một giao diện não-máy tính trong hơn bảy năm ba tháng, tính đến ngày 17/8/2022. Và đó cũng là thời gian dài nhất mà một con người đã sở hữu bộ phận cấy ghép như thế này. Đó là một mảng điện cực có kích thước bằng cục tẩy bút chì, được phẫu thuật để lắp vào vỏ não vận động của Copeland, chuyển các xung thần kinh thành các lệnh cho phép anh điều khiển các thiết bị bên ngoài như máy tính, trò chơi điện tử và cánh tay robot chỉ bằng suy nghĩ của mình.
Quay lai quá khứ thì một vụ tai nạn xe hơi năm 2004 đã khiến Copeland bị liệt từ ngực trở xuống, không thể cử động hay cảm nhận được tay chân của mình. Năm 2014, anh tham gia một nghiên cứu tại Đại học Pittsburgh dành cho những người bị chấn thương tủy sống để xem liệu giao diện não-máy tính (Brain-Computer Interface - hay BCI), có thể khôi phục một số chức năng mà anh đã mất hay không. Anh đã không ngần ngại đăng ký, mặc dù việc đó sẽ yêu cầu phẫu thuật não, và khi đó không ai biết thiết bị sẽ hoạt động được trong bao lâu.
"Khi bắt đầu, họ nói: 'Ồ, nó có thể sẽ kéo dài 5 năm'. Trên thực tế con số 5 năm đó dựa trên dữ liệu về khỉ, bởi vì chưa có con người nào làm điều đó", anh nói.
Bộ phận cấy ghép của Copeland vẫn đang hoạt động - và không gây ra bất kỳ tác dụng phụ hoặc biến chứng lớn nào - mang lại triển vọng cho lĩnh vực này. Đó là một dấu hiệu cho thấy các thiết bị này, đã được phát triển từ những năm 1960 nhưng vẫn còn đang thử nghiệm, đang tiến gần hơn đến việc triển khai phiên bản thương mại cho những bệnh nhân khuyết tật nặng. Jane Huggins, giám đốc Phòng thí nghiệm giao diện não của Đại học Michigan, người không liên kết với nghiên cứu Pittsburgh, cho biết: "Có vẻ như nó đang ở ranh giới của việc đi vào thực tế."
Nhưng các câu hỏi vẫn còn đó, chủ yếu về độ bền lâu dài của các mảng được cấy ghép. Không ai rõ hiệu suất của chúng sẽ bị xói mòn như thế nào theo thời gian và liệu chúng có thể được nâng cấp hay không. "Thật là điên rồ nếu được phục hồi chức năng trong nhiều năm, rồi lại mất đi. Và đó luôn là mối quan tâm với các thiết bị cấy ghép khi sử dụng như một yêu cầu dịch vụ", Huggins nói.
Copeland nhận được mảng thiết bị đầu tiên của mình vào năm 2015 và sau đó đã nhận được thêm ba chiếc nữa trong một phần của nghiên cứu, mang lại cho anh ấy tổng cộng bốn bộ phận cấy ghép đang hoạt động. Được gọi là mảng Utah, chúng được làm bằng silicon cứng và trông hơi giống phần lông của bàn chải tóc. Một mảng tiêu chuẩn là một lưới hình vuông với 100 kim nhỏ, mỗi kim dài khoảng một mm và được phủ một lớp kim loại dẫn điện. Bởi vì các tế bào thần kinh tạo ra điện trường khi chúng giao tiếp với nhau, các nhà khoa học có thể sử dụng các mảng này để nắm bắt và ghi lại hoạt động từ hàng trăm tế bào thần kinh gần đó.
Để xây dựng giao diện não-máy tính, các nhà nghiên cứu phải dịch các tín hiệu thần kinh đó thành các lệnh kỹ thuật số cho phép người đeo điều khiển chân tay giả hoặc máy tính. Hệ thống mà Copeland sử dụng, được gọi là BrainGate, bao gồm một mảng được cấy ghép, một dây cáp chạy từ một cái bệ có kích thước bằng một viên pin nhỏ trên đầu đến một thiết bị bên ngoài giúp khuếch đại tín hiệu thần kinh của anh và một máy tính chạy phần mềm để giải mã những tín hiệu đó.
Richard Normann, giáo sư kỹ thuật sinh học tại Đại học Utah, là người đầu tiên định hình mảng Utah vào những năm 1980 khi ông đang tìm cách phục hồi thị lực. Kể từ đó, nó trở thành tiêu chuẩn vàng cho các nghiên cứu giao diện não-máy tính.
"Toàn bộ lĩnh vực này được xây dựng trên mảng Utah", Matt Angle, Giám đốc điều hành của Paradromics, một công ty BCI có trụ sở tại Texas, cho biết. "Thực tế là chúng tôi đã đi quá lâu trên một thiết bị được thiết kế vào những năm 80 và 90, từ đó bạn có thể hiểu mức độ đi trước thời đại của nó".
Năm 2004, Matt Nagle trở thành người bại liệt đầu tiên được cấy ghép mảng Utah. Nó cho phép ông di chuyển con trỏ máy tính, vận hành TV, kiểm tra email và đóng mở bàn tay giả. Bộ phận cấy ghép của Nagle đã được lấy ra sau một năm, theo quy trình của nghiên cứu mà ông tham gia. Hiện có hơn 30 người tham gia nghiên cứu trên khắp thế giới đang đeo BCI được cấy ghép. Ian Burkhart trước đây là người giữ kỷ lục cấy ghép BCI lâu nhất, cho đến khi ông gỡ bỏ nó vào năm 2021 khi nghiên cứu liên quan kết thúc.
Với rất ít người được trang bị những thiết bị này, nên tuổi thọ của chúng vẫn chưa được biết rõ. Cho đến nay, mảng Utah đã hoạt động kéo dài tới 10 năm trên loài khỉ. Trong trường hợp của Copeland, các mảng của anh ấy vẫn hoạt động, nhưng không tốt như trong khoảng năm đầu tiên sau khi được cấy ghép, theo Robert Gaunt, kỹ sư y sinh tại Đại học Pittsburgh và là thành viên nhóm nghiên cứu của Copeland.
"Cơ thể là một nơi rất khó để đưa các thiết bị điện tử và các hệ thống đã được chế tạo vào", Gaunt nói. "Đó là một môi trường hung hãn, và cơ thể luôn cố gắng loại bỏ những thứ này."
Các mảng được cấy ghép có thể kích thích phản ứng miễn dịch trong mô thần kinh bao quanh các điện cực, chính là các đầu dò nhọn bám vào não. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng tình trạng viêm này có thể dẫn đến giảm chất lượng tín hiệu. Và mô sẹo có thể hình thành xung quanh các mô cấy ghép não, điều này cũng ảnh hưởng đến khả năng nhận tín hiệu từ các tế bào thần kinh gần đó. Khi có càng ít thông tin mà BCI có thể giải thích từ các tế bào thần kinh, thì nó càng kém hiệu quả trong việc thực hiện các chức năng như dự định.
Một cách mà các nhà khoa học đang cố gắng làm cho việc cấy ghép tồn tại lâu hơn là thử nghiệm với các loại vật liệu khác nhau. Mảng Utah được cách nhiệt bằng parylene, một lớp phủ polyme bảo vệ được sử dụng trong ngành thiết bị y tế vì tính ổn định và khả năng thấm ẩm thấp. Nhưng nó có thể bị ăn mòn và nứt theo thời gian, và các vật liệu khác có thể được chứng minh là bền hơn.
Florian Solzbacher, đồng sáng lập và chủ tịch của Blackrock Neurotech, công ty sản xuất mảng Utah, cho biết công ty đang thử nghiệm một loại vật liệu được phủ bằng sự kết hợp của parylene và silicon carbide. Ông nói: "Chúng tôi đã thấy thời gian tồn tại của chúng có thể lên tới 30 năm và chúng tôi đã có một số dữ liệu sơ bộ trên động vật. Nhưng công ty vẫn chưa cấy nó vào người, vì vậy thử nghiệm thực sự sẽ là cách mô người phản ứng với công thức vật liệu mới."
Làm cho các điện cực linh hoạt hơn cũng có thể là giải pháp giúp giảm sẹo. Công ty Paradromics của Angle đang phát triển một mô cấy tương tự như mảng Utah, nhưng với các điện cực mỏng hơn nhằm mục đích ít gây xáo trộn hơn cho mô.
Một số nhà nghiên cứu đang thử các vật liệu mềm hơn, để chúng có thể tích hợp vào não tốt hơn so với các mảng Utah cứng nhắc. Một nhóm tại Viện Công nghệ Massachusetts đang thử nghiệm với các lớp phủ hydrogel được thiết kế để có độ đàn hồi rất giống với bộ não. Các nhà khoa học tại Đại học Pennsylvania cũng đang phát triển các điện cực "sống", với các vi sợi nhỏ như lông được tạo ra từ các tế bào thần kinh và sợi thần kinh phát triển từ tế bào gốc.
Nhưng những cách tiếp cận này cũng có mặt trái. "Bạn có thể biến một thứ cứng nhắc thành một thứ mềm mại. Nhưng nếu bạn đang cố gắng đặt một thứ rất mềm vào một thứ cũng mềm khác, thì điều đó rất khó", Gaunt nói.
Một cách tiếp cận khác là làm cho các mô cấy nhỏ hơn, và do đó ít tạo ra sự xâm lấn hơn. Ví dụ, các nhà nghiên cứu đang thử nghiệm các hạt nơ-ron, những con chip nhỏ có kích thước bằng một hạt cát, theo giả thuyết có thể rắc khắp bề mặt vỏ não. Nhưng chưa ai thử phân tán chúng trên não người và hệ thống này chỉ mới được thử nghiệm trên các loài gặm nhấm đã bị cắt bỏ hộp sọ.
Một số người tham gia nghiên cứu đã được lấy ra và thay thế các mảng Utah của họ, nhưng tiến hành nhiều cuộc phẫu thuật không phải là điều lý tưởng. Vì mỗi cuộc phẫu thuật đều có nguy cơ nhiễm trùng hoặc chảy máu tại vị trí cấy ghép. Gaunt nói rằng các bác sĩ phẫu thuật có thể sẽ không đặt một bộ phận cấy ghép mới vào cùng một vị trí với một bộ phận cũ, đặc biệt nếu có sẹo ở khu vực đó. Nhưng việc đảm bảo rằng vật thay thế được đặt đúng chỗ lại là một vấn đề cần lưu tâm, vì cấy ghép không đúng vị trí có thể gây suy giảm khả năng nhận thức và giao tiếp.
Gaunt cho biết sẽ tốt hơn nếu các thành phần BCI bên ngoài - chẳng hạn như bộ xử lý hoặc phần mềm - có thể nâng cấp được, để bệnh nhân không phải trải qua nhiều cuộc phẫu thuật.
Nhưng trên thực tế, một phần bên ngoài của hầu hết các hệ thống BCI mới thực sự là một trong những rủi ro lớn nhất đối với việc cấy ghép não. Bởi dù các bệ đặt trên đỉnh hộp sọ có xu hướng gây nhiễm trùng, nhưng sự hiện diện của nó là cần thiết để kết nối mảng được cấy ghép với máy tính bên ngoài. Hiện tại, Copeland và những người tham gia nghiên cứu khác phải cắm dây vào hệ thống thông qua bệ đỡ đầu để sử dụng BCI của họ. Các nhà nghiên cứu đang cố gắng làm việc để loại bỏ các dây cáp này.
Đối với Copeland, đó là một sự khó chịu nhẹ để đổi lấy những điều anh có thể làm với BCI của mình. Mặc dù vậy, anh hy vọng các hệ thống trong tương lai sẽ không dây và cung cấp cho những người bị liệt một phạm vi hoạt động hoặc khả năng rộng hơn.
Với những ẩn số về tuổi thọ của BCI, Copeland biết rằng thiết bị cấy ghép của mình có thể sẽ ngừng hoạt động vào một ngày nào đó. Nhưng anh ấy đang cố gắng không lo lắng về điều đó và cũng sẽ không từ chối việc nâng cấp. "Trong 5 hoặc 10 năm nữa, nếu có thứ gì đó có thể cải thiện đáng kể, tôi sẽ làm lại cuộc phẫu thuật và tiếp tục tiến về phía trước", anh cho biết.
Trọn vẹn niềm vui mùa trăng tròn với "thành viên mới" LG ThinQ Thời gian bận rộn vừa qua khiến bạn không có nhiều dịp sum họp cùng gia đình. Nếu đã như vậy, hãy nhân mùa Trung thu này cùng mọi người quây quần bên nhau, còn bằng cách nào, hãy để LG ThinQ giúp sức! Công nghệ phát triển không phải để mỗi người dựng lên một thế giới riêng, ngược lại, công nghệ...