Giá trị vốn hóa thị trường Vietcombank đạt 10,9 tỷ USD
Giá trị thị trường của Vietcombank đã gia tăng gần 3 lần so với thời điểm 2015, trước khi bước vào giai đoạn tái cơ cấu.
Với vốn hóa thị trường đạt ngưỡng 10,9 tỷ USD, Vietcombank vừa được bảng xếp hạng “The World’s Largest Public Companies 2019″ của Forbes ghi nhận với vị trí dẫn đầu trong số các công ty Việt Nam.
Ảnh minh họa
Có thể nói, chỉ trong vòng 5 năm, giá trị thị trường của Vietcombank đã gia tăng gần 3 lần so với thời điểm 2015 – năm bắt đầu bước vào giai đoạn tái cơ cấu 2016 – 2020.
Giai đoạn 2016-2018 chứng kiến Vietcombank bứt tốc ngoạn mục. Năm 2016, trong danh sách Global 2000, Vietcombank xếp sau Vietinbank và BIDV. Tuy chỉ đứng thứ ba tại VN với thứ hạng 1.843 cùng doanh thu 1,8 tỉ USD và thị giá 5,5 tỉ USD nhưng xét về thị giá của cả ba ngân hàng, tổng giá trị thị trường của Vietinbank và BIDV cộng lại vẫn chưa bằng Vietcombank (Vietinbank: 2,8 tỉ USD và BIDV: 2,6 tỉ USD – số liệu năm 2016).
Năm 2018 đánh dấu Vietcombank là ngân hàng Việt Nam duy nhất có mặt trong top 30 ngân hàng mạnh nhất khu vực châu Á – Thái Bình Dương, theo xếp hạng của The Asian Banker. Đặc biệt, liên tục trong nhiều năm trở lại đây, Vietcombank được The Asian Banker đánh giá là “Ngân hàng có bảng cân đối tài chính mạnh nhất Việt Nam”.
Video đang HOT
Vietcombank cũng đã đưa tỉ lệ nợ xấu về dưới 1%, với dư nợ xấu nội bảng khoảng 6.181 tỉ đồng, trích lập quỹ dự phòng rủi ro ở mức 10.490 tỉ đồng, tỉ lệ bao phủ nợ xấu nội bảng là 169,7% – cao nhất ngành ngân hàng. Các chỉ số ROAA, ROAE lần lượt đạt 1,37% và 25,42%.
Cũng trong năm này, Vietcombank là ngân hàng đầu tiên mua toàn bộ nợ xấu từ AMC về để xử lý và đưa nợ xấu về một sổ trước 2 năm so với kế hoạch, đáp ứng chuẩn mực Basel 2 theo thông tư 41 trước 1 năm so với quy định.
Ngoài ra, Vietcombank còn khai trương chi nhánh tại Lào, hoàn tất thủ tục mở chi nhánh tại thị trường Úc. Đặc biệt, Vietcombank trở thành ngân hàng Việt Nam duy nhất đến lúc này đáp ứng những chuẩn mực khắt khe của thị trường, trở thành ngân hàng Việt Nam đầu tiên được Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) chấp thuận cho mở văn phòng đại diện tại Mỹ.
Trước đó, Tạp chí Forbes Viêt Nam vừa công bô “Danh sach 50 công ty niêm yêt tôt nhât” năm 2019.
Trong nhóm ngành tài chính, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank – mã chứng khoán VCB) vinh dự là đại diện duy nhất trong các tổ chức tín dụng quy mô lớn mà nhà nước giữ cổ phần chi phối, liên tiếp có mặt trong danh sách bình chọn suốt 7 năm qua.
Năm 2018, Vietcombank ghi nhận lợi nhuận kỷ lục 14.605 tỷ đồng, tăng 60%, dẫn đầu hệ thống ngân hàng Việt Nam. Trên thị trường chứng khoán, lần đầu Vietcombank vươn lên trở thành nhà quán quân về lợi nhuận. Đồng thời, đây cũng là ngân hàng Việt Nam đầu tiên có giá trị vốn hóa thị trường vượt 10 tỷ USD.
Theo Forbes Viêt Nam đánh giá, Vietcombank là ngân hàng có chất lượng tài sản tốt nhất với cơ cấu thu nhập đa dạng, dẫn đầu thị trường ở nhiều mảng sản phẩm dịch vụ. Cuối năm 2018, nhà băng này có hơn 16.000 tỷ đồng lợi nhuận chưa phân phối.
Nam Phong
Theo thuonghieuvaphapluat.vn
Dành lợi nhuận để tăng vốn cho các ngân hàng lớn nhất Việt Nam
Các bộ, ngành liên quan cần sớm triển khai các biện pháp ưu tiên, khẩn trương giải quyết nhu cầu cấp thiết về tăng vốn điều lệ của 4 NHTM nhà nước (Agribank, BIDV, Vietcombank,Vietinbank).
Liên quan đến vấn đề tăng vốn điều lệ của 4 ngân hàng thương mại lớn do Nhà nước nắm giữ 100% vốn hoặc nắm giữ cổ phần chi phối gồm: Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank), Ngân hàng Công thương (Vietinbank), Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV) và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank), thời gian qua, Hiệp hội Ngân hàng đã có nhiều văn bản kiến nghị các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giải quyết nhu cầu cấp thiết về tăng vốn điều lệ của các ngân hàng này,
Từ đầu năm đến nay, Thường trực Chính phủ, các bộ, ngành liên quan cũng đã có nhiều cuộc họp để xem xét, tuy nhiên việc giải quyết chưa đáp ứng được yêu cầu mà Chính phủ đặt ra, cũng như nhu cầu cấp bách của 4 ngân hàng nêu trên. Hiệp hội Ngân hàng vẫn tiếp tục nhận được văn bản phản ảnh và đề nghị của 4 ngân hàng về vấn đề này.
Về chủ trương, Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020" đã đề ra mục tiêu: Tăng vốn điều lệ để bảo đảm tỷ lệ an toàn vốn theo chuẩn mực Basel II, bảo đảm vai trò chi phối của Nhà nước trong các ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước, trong đó Nhà nước nắm giữ mức tối thiểu 65% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết; Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 8/8/2018 phê duyệt "Chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030" đã yêu cầu: đến năm 2020, các NHTM do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ phải đáp ứng đủ vốn theo chuẩn mực an toàn vốn của Basel II. Các ngân hàng đã xây dựng phương án cụ thể, tập trung đẩy mạnh tái cơ cấu, nâng cao hiệu quả kinh doanh, thực hiện các biện pháp nâng cao năng lực tài chính, như: kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng theo đúng định hướng chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước; tái cơ cấu lại danh mục tài sản có rủi ro theo hướng giảm tỷ trọng các tài sản có hệ số rủi ro cao; phát hành trái phiếu thứ cấp tăng vốn cấp 2 nhằm cải thiện tỷ lệ an toàn vốn. Tuy đã áp dụng đồng bộ và tối đa các biện pháp, nhưng các ngân hàng này vẫn không đáp ứng mức vốn tối thiểu 8% theo chuẩn mực của Basel II.
Hiện nay, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) theo chuẩn mực vốn Basel I bình quân của 4 NHTM nhà nước đã sát mức tối thiểu theo quy định (9,4%), thấp hơn so với mức bình quân chung của hệ thống các tổ chức tín dụng trong nước (13%).
Để đáp ứng được chủ trương và mục tiêu Chính phủ đề ra, 4 ngân hàng này rất cần sự hỗ trợ từ phía Nhà nước trong việc thực hiện phương án nâng vốn điều lệ mà các ngân hàng đã xây dựng.
Nhìn nhận vấn đề này, Hiệp Hội Ngân hàng Việt Nam cho rằng: "Bốn NHTM nhà nước nói trên hiện có tổng tài sản và dư nợ tín dụng chiếm thị phần trên dưới 50% toàn hệ thống ngân hàng. Những năm qua, mặc dù các ngân hàng này không được Nhà nước cấp bổ sung vốn nhưng vẫn cố gắng mở rộng tín dụng để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế; các ngân hàng luôn phát huy tốt vai trò chủ lực và trụ cột, đi tiên phong triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; có mức tăng trưởng cao, đóng góp lớn cho Ngân sách nhà nước.Nếu không tăng được vốn điều lệ, các ngân hàng này sẽ phải giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng, ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng cung ứng vốn phục vụ nền kinh tế, từ đó có thể ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế, giảm thu ngân sách từ thuế; đồng thời có nguy cơ vi phạm tỷ lệ an toàn vốn, bị sụt giảm tỷ lệ an toàn ảnh hưởng xấu đến an toàn hoạt động, mức xếp hạng tín nhiệm quốc tế, uy tín trên thị trường; hạn chế vai trò chủ lực của các ngân hàng này trong toàn hệ thống ".
Trong 4 NHTM nhà nước nói trên, hiện nay, việc tăng vốn điều lệ đối với Vietinbank là đặc biệt cấp bách. Theo phản ảnh của Vietinbank: "Từ năm 2014 tới nay, Vietinbank không được bổ sung thêm vốn điều lệ, Vì vậy, Vietinbank đã khai thác mọi biện pháp tăng vốn đến mức tối đa và đang bị giới hạn bởi các ràng buộc theo quy định hiện hành, như việc phát hành trái phiếu thứ cấp (Tỷ lệ trái phiếu thứ cấp và nợ thứ cấp được tính vào vốn cấp 2 tối đa là 50% vốn cấp 1 thì hiện tại Vietinbank đã chạm giới hạn này). Trong khi đó, cũng trong giai đoạn này, Vietinbank luôn duy trì tốc độ tăng trưởng quy mô mạnh mẽ (bình quân 18,5%) và luôn thực hiện chia cổ tức bằng tiền mặt với tỷ lệ cao 7%-10% vốn điều lệ. Do đó, hệ số CAR của Vietinbank tương ứng bị sụt giảm và hiện đã tiến sát ngưỡng tối thiểu theo quy định của Ngân hàng Nhà nước". Chính vì vậy, năm 2018, Vietinbank chỉ tăng trưởng tín dụng được 6% (mức tăng trưởng thấp nhất đối với Vietinbank trong hơn 10 năm trở lại đây);
Hiệp Hội Ngân hàng cũng cho rằng: "Nếu được sự hỗ trợ kịp thời của Nhà nước để 4 NHTM nhà nước tăng được vốn điều lệ thì Nhà nước bảo đảm được vai trò chi phối đối với các NHTM nhà nước), từ đó phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của các ngân hàng này là công cụ đắc lực để thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, trong đó có việc cung ứng vốn cho tăng trưởng kinh tế, góp phần giúp Chính phủ đạt được mục tiêu tăng trưởng năm nay và những năm tiếp theo; gia tăng nguồn thu ngân sách; về lâu dài, đảm bảo an toàn hoạt động cho hệ thống các tổ chức tín dụng...".
Đây là vấn đề cấp bách, các bộ, ngành liên quan cần sớm triển khai các biện pháp ưu tiên, khẩn trương giải quyết nhu cầu cấp thiết về tăng vốn điều lệ của 4 NHTM nhà nước (Agribank, BIDV, Vietcombank, Vietinbank). Hiệp Hội Ngân hàng cũng kiến nghị các cơ quan quản lý nhà nước trước mắt cần cho phép các NHTM nhà nước được giữ lại lợi nhuận hàng năm hoặc chia phần cổ tức của Nhà nước bằng cổ phiếu để tăng vốn, giải quyết phần nào những khó khăn, vướng mắc, cản trở hiện nay của 4 ngân hàng.
Phương Anh
Theo vietnamnet.vn
'So găng' quy mô bộ tứ ngân hàng Việt tham chiếu từ Agribank Mặc dù kém BIDV về tổng tài sản, kém Vietcombank và VietinBank về vốn chủ sở hữu nhưng ở hàng loạt tiêu chí quan trọng khác, Agribank vẫn "trên cơ" so với 3 ngân hàng còn lại. 'So găng' quy mô bộ tứ ngân hàng Việt tham chiếu từ Agribank Agribank, ngân hàng trước đây thường được định danh là "anh cả" trong...