Giá dầu cọ được dự báo tăng tiếp trong nửa đầu năm 2021 do thiếu cung
Hội đồng các nước sản xuất dầu cọ (CPOPC) mới đây cho biết, giá dầu cọ sẽ tiếp tục tăng trong nửa đầu năm 2020 do nguồn cung trên toàn cầu hạn hẹp bởi thời tiết La Nina.
“Việc nguồn cung dầu cọ bị gián đoạn do mưa lớn kéo dài ở khu vực Đông Nam Á sẽ khiến nguồn cung trên toàn cầu tiếp tục khan hiếm cho đến quý I năm sau”, báo cáo của CPOPC viết, và thêm rằng: “Đến nửa cuối năm 2020, lượng mưa đầy đủ, cây cọ được chăm sóc tốt hơn (do giá cao hiện nay thu hút người trồng cọ tăng cường đầu tư cho cây trồng) sẽ thúc đẩy sản lượng tăng đáng kể”.
Giá dầu cọ ngày 03/12 đạt 3.348 riggit/tấn, gần sát mức cao nhất 8 tháng đạt được hồi tháng 11.
Nguồn cung dầu thực vật trên toàn cầu nhìn chung đang khan hiếm vì thời tiết không thuận lợi làm gián đoạn sản xuất cả dầu đậu tương, dầu hướng dương và dầu hạt cải. Đây cũng sẽ là yếu tố hỗ trợ giá dầu cọ tiếp tục tăng vào đầu năm 2021, trong bối cảnh người tiêu dùng có xu hướng chuyển sang dầu cọ vì giá dầu cọ dù tăng thì vẫn rẻ hơn so với các loại dầu khác.
Theo CPOPC, kể từ 2021, cơ cấu nguồn cung dầu cọ toàn cầu sẽ có sự thay đổi, khi việc trồng mới cây cọ ở các nước sản xuất hàng đầu là Indonesia và Malaysia từ năm 2015 đến nay đã chậm dần lại.
Video đang HOT
Tuy nhiên, “Vẫn cần nhấn mạnh rằng các trang trại gia đỉnh của Indonesia vẫn duy trì trồng lại cây cọ dầu với tổng diện tích 500.000 ha tính tới cuối năm 2022, giúp duy trì đáp ứng đủ nhu cầu cọ cho toàn thế giới”, CPOPC cho bieetgs.
Indonesia và Malaysia, hai nhà sản xuất dầu cọ lớn nhất, đã hạn chế mở rộng các đồn điền mới do bị chỉ trích về tình trạng phá rừng và phá hủy môi trường sống tự nhiên.
Trong khi các kho dự trữ dầu ăn ở các thị trường hàng đầu thế giới là Ấn Độ và Trung Quốc trở nên khan hiếm khiến nhu cầu nhập khẩu của 2 thị trường này tăng lên, CPOPC cho biết Ấn Độ có thể giảm nhập khẩu mặt hàng này nếu sản lượng các loại hạt có dầu khác trên thị trường nội địa tăng lên.
Trong khi đó, tiêu thụ dầu thực vật ở Châu Âu dự báo giảm do các nhà hàng phải đóng cửa và mức độ tiêu thụ diesel sinh học giảm vì dịch Covid-19.
Tóm lại, CPOPC cho rằng: “Nhìn chung, triển vọng thị trường dầu cọ năm 2021 là khả quan nếu so với giá trung bình của năm 2019 và 2020. Dự báo giá dầu cọ năm 2020 sẽ trung bình khoảng 2.600 – 2.650 ringgit/tấn.
Hạ lãi suất: Giúp giảm áp lực trả nợ
Từ đầu năm đến nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã 3 lần giảm lãi suất điều hành, với mức giảm khoảng 1,5-2%/năm. Động thái này được kỳ vọng sẽ tạo nguồn vốn rẻ cho các ngân hàng thương mại, giúp tăng dòng chảy tín dụng, từ đó lan tỏa tích cực đến tình hình kinh tế.
Lãi suất tiền gửi tại nhiều ngân hàng đã giảm. Ảnh: ST
"Khơi" dòng vốn
Theo NHNN, từ năm 2016 đến nay đã điều chỉnh giảm 2-2,5%/năm các mức lãi suất điều hành, giảm 0,8-1,5%/năm trần lãi suất huy động các kỳ hạn dưới 6 tháng, giảm 2,5%/năm trần lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên.
Đặc biệt, dưới tác động của đại dịch Covid-19, chỉ riêng năm 2020, NHNN đã 3 lần điều chỉnh giảm đồng bộ các mức lãi suất điều hành với quy mô cắt giảm tương đối mạnh. Nhờ đó, so với các nước trong khu vực, mức giảm lãi suất điều hành của Việt Nam hiện là một trong các mức giảm mạnh nhất. Cụ thể là Trung Quốc giảm 0,3%, Malaysia giảm 1,25%, Thái Lan giảm 0,75%, Indonesia giảm 1%, Ấn Độ giảm 1,15%...
NHNN cho rằng, cùng với các giải pháp đồng bộ để hỗ trợ nền kinh tế, việc giảm mạnh các mức lãi suất điều hành của NHNN góp phần tháo gỡ khó khăn và hỗ trợ phục hồi kinh tế. Theo Phó Thống đốc thường trực NHNN Đào Minh Tú, vấn đề hỗ trợ thông qua hạ lãi suất, kể cả việc cho vay mới hay các khoản vay cũ, đều tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn dễ dàng hơn. Vì thế, việc hạ lãi suất là giải pháp cơ bản, quan trọng cho tín dụng mở rộng.
Trên thực tế, làn sóng giảm lãi suất huy động tại các ngân hàng thương mại đã diễn ra mạnh kể từ đầu tháng 9 đến nay, kéo theo lãi suất cho vay cũng giảm cùng hàng loạt gói tín dụng ưu đãi hỗ trợ doanh nghiệp, người dân. Bên cạnh đó, NHNN cũng quyết định hoãn siết tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn thêm 1 năm để các ngân hàng không bị chịu áp lực cơ cấu lại nguồn vốn, trong bối cảnh các ngân hàng thương mại đã phải hỗ trợ doanh nghiệp gặp khó khăn về mặt thanh khoản, thông qua việc giảm lãi suất cho vay, giãn nợ và cơ cấu lại nợ. Đây có thể nói là những động thái hết sức cần thiết khi nhiều ý kiến cho rằng Chính phủ và các cơ quan quản lý cần những chính sách, giải pháp khác quyết liệt hơn để hỗ trợ nền kinh tế. Bởi trên thế giới, nhiều nước đã ban hành các giải pháp rất mạnh, nới lỏng chính sách tiền tệ để tăng dòng vốn, cứu nền kinh tế trong bối cảnh đại dịch.
Giúp giảm áp lực trả nợ
Mặc dù thị trường đón nhận khá tích cực trước các quyết định hạ lãi suất của NHNN, nhưng tác động thực tế đến toàn bộ nền kinh tế lại không quá lớn như kỳ vọng. Bộ phận phân tích - Công ty Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) cho rằng, quyết định giảm lãi suất điều hành của NHNN phần nhiều phản ánh nỗ lực đồng hành, hỗ trợ nền kinh tế của NHNN nhằm thúc đẩy tăng trưởng GDP trong quý cuối năm. Bởi hiện nay, đối với trần lãi suất tiền gửi dưới 6 tháng, lãi suất huy động thực tế của các ngân hàng thương mại trên thị trường tại các kỳ hạn này hiện cũng đều dưới 4%/năm, tức dưới mức trần mới mà NHNN ban hành.
Hơn nữa, theo phân tích của các chuyên gia Công ty Chứng khoán KB (KBSV), lãi suất huy động ở mức thấp và trong xu hướng giảm xuất phát từ hai nguyên nhân. Thứ nhất là thanh khoản hệ thống duy trì ở trạng thái dư thừa khi nguồn cung dồi dào, trong khi phía cầu chưa có nhiều tín hiệu khởi sắc (tín dụng đến 30/9/2020 mới tăng 6,09% so với cuối năm 2019, cùng kỳ năm trước tăng 9,4% - NHNN). Thứ hai, áp lực giảm lãi suất huy động để duy trì tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) phù hợp trong bối cảnh các ngân hàng phải cắt giảm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng trong dịch Covid-19.
Có thể thấy, lãi suất trên thị trường giảm đến từ quyết định của NHNN không nhiều. Chưa kể, quyết định giảm lãi suất đến lần thứ 3 trong năm của NHNN không phải quá bất ngờ, mà phù hợp với xu hướng cắt giảm lãi suất điều hành của nhiều ngân hàng trung ương các nước trên thế giới trước những lo ngại rủi ro kinh tế toàn cầu suy giảm. Đánh giá thêm về vấn đề này, ông Phạm Thế Anh, Trưởng bộ môn Kinh tế Vĩ mô, trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng, sự mở rộng tiền tệ chủ yếu chỉ giúp tạo niềm tin, giảm nghĩa vụ nợ và ổn định tài chính, ít có khả năng khôi phục cầu nội địa. Lãi suất không phải là rào cản của việc vay vốn, nên động thái hạ lãi suất dù không giúp tăng trưởng tín dụng nhưng giúp giảm áp lực trả nợ rất nhiều, nếu Việt Nam kiểm soát tốt lạm phát trong thời gian tới thì dư địa hạ lãi suất sẽ còn rất nhiều.
Theo các chuyên gia, xét về tổng thể, các chính sách tiền tệ nhằm đối phó với dịch Covid-19 của NHNN chủ yếu sử dụng nguồn lực từ các ngân hàng thương mại, do vậy mức tác động đến cung tiền là không quá lớn so với các công cụ bơm tiền trực tiếp thông qua việc mua trái phiếu của các ngân hàng trung ương khác. Do đó, chuyên gia tài chính - ngân hàng TS. Cấn Văn Lực cho rằng, lãi suất tại Việt Nam phải ở mức trung bình cao so với quốc tế và khu vực do thuế giá trị gia tăng (VAT) của Việt Nam cao, rủi ro doanh nghiệp cao xếp hạng tín nhiệm BB - hạng đầu cơ, thì lãi suất 5-7% là hợp lý. Hơn nữa, lãi suất đầu vào phải duy trì hấp dẫn để thu hút nguồn vốn cho hệ thống ngân hàng. Vì thế, việc hỗ trợ nền kinh tế thông qua lãi suất cần có sự chọn lọc, hơn nữa, chính sách tài khóa có hiệu quả hơn trong việc ngăn chặn sự suy giảm của nền kinh tế, nên cần đẩy mạnh hơn các giải pháp về giải ngân đầu tư công... sẽ giúp kích thích chi tiêu, kích cầu đầu tư...
Giá cao su đạt đỉnh 6 năm, người trồng vẫn không muốn bán Từ 01/4/2020 đến nay, giá cao su trên thị trường quốc tế đã tăng gần gấp đôi, chủ yếu do những yếu tố mang tính toàn cầu, nhất là nhu cầu mạnh từ Trung Quốc. Giá cao su thiên nhiên trên thị trường Ấn Độ hiện đã tăng lên mức cao nhất trong vòng 6 năm nhưng người trồng cao su, nhất là...