GDP 9 tháng đầu năm tăng 5,93%
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 9 tháng năm 2016 ước tính tăng 5,93% so với cùng kỳ năm trước, tiếp tục xu hướng tăng trưởng GDP quý sau cao hơn quý trước.
Ảnh minh họa.
Đó là thông tin được đưa ra tại buổi họp báo của Tổng cục Thống kê sáng ngày 29/9.
Cụ thể, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm cho biết, tổng sản phẩm trong nước (GDP) 9 tháng năm 2016 ước tính tăng 5,93% so với cùng kỳ năm trước.
Kết quả này cho thấy nền kinh tế tiếp tục xu hướng tăng trưởng GDP quý sau cao hơn quý trước (Quý I tăng 5,48%, quý II tăng 5,78% và ước tính quý III tăng 6,40%). Tuy nhiên, con số này vẫn thấp hơn mức tăng 6,53% của cùng kỳ năm 2015.
Nguyên nhân chủ yếu do ngành công nghiệp khai khoáng tiếp tục giảm sút và nông nghiệp tăng trưởng thấp hơn mức tăng cùng kỳ năm trước.
Cụ thể, trong mức tăng 5,93% của toàn nền kinh tế 9 tháng năm nay, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,65%, là mức tăng thấp nhất so với cùng kỳ 6 năm gần đây , đóng góp 0,11 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,50%, đóng góp 2,52 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 6,66%, đóng góp 2,55 điểm phần trăm .
Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, ngành lâm nghiệp đạt mức tăng cao nhất với 6,19% so với cùng kỳ năm 2015, đóng góp 0,04 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành thủy sản tăng 1,81%, đóng góp 0,06 điểm phần trăm; riêng ngành nông nghiệp mặc dù đã có dấu hiệu tăng trở lại so với mức giảm 0,78% của 6 tháng đầu năm nhưng tốc độ tăng chỉ ở mức 0,05%, đóng góp 0,01 điểm phần trăm.
Video đang HOT
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp tăng 7,19% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều mức tăng 9,86% của 9 tháng năm 2015, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đạt mức tăng 11,22%, đóng góp 1,80 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung.
Ngành khai khoáng 9 tháng năm nay giảm tới 3,60%, làm giảm 0,28 điểm phần trăm, nguyên nhân chủ yếu do sản lượng dầu thô khai thác giảm so với cùng kỳ năm trước; khai thác than gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm do giá giảm. Ngành xây dựng tăng trưởng khá với tốc độ 9,1%, đóng góp 0,5 điểm phần trăm vào mức tăng chung.
Trong khu vực dịch vụ, mức tăng của một số ngành có tỷ trọng lớn như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 8,15% so với cùng kỳ năm trước, đây là ngành có mức tăng trưởng cao thứ hai của khu vực dịch vụ (sau ngành thông tin và truyền thông) nhưng là ngành có đóng góp cao nhất vào mức tăng trưởng chung (0,74 điểm phần trăm); dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 5,71%, đóng góp 0,22 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,38%, đóng góp 0,37 điểm phần trăm; hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 3,66% (cùng kỳ năm trước tăng 2,9%), đóng góp 0,2 điểm phần trăm.
Về cơ cấu nền kinh tế 9 tháng năm 2016, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 15,54%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 32,48%; khu vực dịch vụ chiếm 41,8%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,18%.
Theo cấu trúc sử dụng GDP 9 tháng, tiêu dùng cuối cùng tăng 6,97% so với cùng kỳ năm 2015, đóng góp 4,96 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung (trong đó tiêu dùng cuối cùng của hộ dân cư đóng góp lớn nhất với 4,52 điểm phần trăm); tích lũy tài sản tăng 10,12%, đóng góp 2,87 điểm phần trăm; chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tính trong GDP ở tình trạng nhập siêu làm giảm 1,9 điểm phần trăm tăng trưởng.
Theo Bizlive
Báo Anh: Việt Nam có triển vọng là "con hổ" tiếp theo ở châu Á
Tờ báo kinh tế uy tín có trụ sở tại Anh The Economist đã tổng kết lại những thành tựu của nền kinh tế Việt Nam trong những năm vừa qua.
Trong bài viết có tiêu đề "Xin chào, Việt Nam" ở mục Con rồng tiếp theo của châu Á, tờ The Economist đánh giá là nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ, có tiềm năng trở thành "con hổ tiếp theo của kinh tế châu Á".
Việt Nam đang trên đà trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài (ảnh: Alamy).
Năm 2009, khi tìm địa điểm mới để đặt nhà máy chuyên sản xuất thiết bị y tế, công ty của ông Jonathan Moreno đã loại trừ các phương án ở phần lớn các khu vực trên thế giới. Châu Âu và châu Mỹ quá đắt đỏ, Ấn Độ thì quá phức tạp còn vấn đề quyền sở hữu trí tuệ của Trung Quốc thì lại rất tệ, cuối cùng, Việt Nam là ứng viên nổi bật nhất còn lại.
Vào thời điểm đó, việc đầu tư vào đất nước vừa mới vươn lên trở thành điểm đến thu hút các nhà đầu tư vẫn còn quá mạo hiểm. Thế nhưng chỉ 7 năm sau, khi chứng kiến những người công nhân đang thoăn thoắt lắp ráp thiết bị một cách thành thục bên trong các khu nhà máy tại Việt Nam, ông Moreno không còn nghi ngờ về dự án mở rộng sản xuất của công ty ông trong tương lai tại chính mảnh đất này. "Chúng tôi sẽ mở rộng nhà máy ra phía sau và tới những vị trí kia" ông Moreno vừa nói vừa chỉ tay về các hướng khác nhau.
Công ty của ông Moreno không phải công ty nước ngoài duy nhất đến Việt Nam và có kế hoạch mở rộng hoạt động tại đây. Bằng chứng là đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã đạt đến mức kỷ lục trong năm 2015 và vẫn đang tiếp tục tăng trong năm nay. Các thỏa thuận đầu tư ở Việt Nam đã đạt mức 11,3 tỉ USD trong nửa đầu của năm 2016, tăng 105% so với cùng kỳ của năm ngoái dù nền kinh tế toàn cầu vẫn đang tăng trưởng chậm chạp.
Việt Nam thực sự có hồ sơ phát triển mạnh mẽ nhưng vẫn thường bị đánh giá thấp hơn so với thực tế. Kể từ năm 1990, với dân số hơn 90 triệu người, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người cao thứ hai thế giới, chỉ sau Trung Quốc.
Nếu duy trì được tốc độ tăng trưởng 7% trong thập kỷ tới, Việt Nam sẽ tiếp bước Hàn Quốc và Đài Loan để vươn lên trở thành "con hổ châu Á" - chỉ các nền kinh tế có thành quả phát triển vượt bậc. Đây quả là một thành tích đáng khích lệ đối với một quốc gia vẫn còn phải gồng mình khắc phục hậu quả của chiến tranh và đói nghèo trong những năm 80 của thế kỷ trước.
Có lẽ yếu tố lợi thế lớn nhất của Việt Nam là địa lý khi có đường biên giới giáp với Trung Quốc, nơi trước kia từng là một điểm nóng về quân sự, thì nay lại trở thành một lợi thế cạnh tranh. Việt Nam hiện là nước gần với trung tâm sản xuất ở miền Nam Trung Quốc hơn bất cứ nước nào trên thé giới.
Không những thế, việc đi lại giữa 2 bên cũng rất thuận tiện bằng cả đường bộ và đường biển. Việc mức lương của người dân Trung Quốc tăng lên khiến Việt Nam trở thành lựa chọn thay thế đối với những công ty đang tìm cách di chuyển nhà máy sản xuất của họ tới các trung tâm sản xuất chi phí thấp hơn.
Một dân số tương đối trẻ cũng tăng thêm sự hấp dẫn của Việt Nam. Trong khi độ tuổi trung bình của Trung Quốc hiện nay là 36 thì của Việt Nam là 30,7.
Theo The Economist, nhiều nước khác cũng có lực lượng lao động trẻ nhưng ít nước có những chính sách hiệu quả như Việt Nam. Từ đầu những năm 1990, chính phủ Việt Nam đã rất cởi mở với các hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế. Điều này đã khiến các công ty nước ngoài tin tưởng khi xây dựng các nhà máy tại Việt Nam. Các nhà đầu tư nước ngoài hiện đóng góp khoảng 1/4 chi tiêu vốn hàng năm của Việt Nam. Thương mại đạt khoảng 150% tổng sản lượng quốc gia, nhiều hơn tất cả các nước có cùng mức GDP bình quân đầu người.
Các nhà đầu tư cũng có lòng tin vào sự ổn định của các kế hoạch dài hạn của Việt Nam. Tương tự Trung Quốc, Việt Nam cũng sử dụng các kế hoạch 5 năm như các bản thiết kế thô cho sự phát triển. Giới quản lý của Việt Nam cũng tạo điều kiện để 63 tỉnh thành cạnh tranh lẫn nhau để thu hút các nhà đầu tư.
Lực lượng lao động của Việt Nam không chỉ trẻ mà còn có kỹ năng. Chi tiêu công cho giáo dục của Việt Nam chiếm khoảng 6,3% GDP, nhiều hơn 2% so với mức trung bình của các nước có thu nhập thấp và trung bình.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng đang đối mặt với hàng loạt các thách thức và bất kỳ thách thức nào cũng có thể cản trở sự phát triển của đất nước. Đầu cơ thái quá trong quá khứ đã giúp thổi lên bong bóng tài sản. Bong bóng này bùng nổ vào năm 2011, khiến các ngân hàng đầy nợ xấu.
Trong một vấn đề rất quan trọng là thúc đẩy hoạt động của lĩnh vực tư nhân, Việt Nam lại tỏ ra kém hơn Trung Quốc. Các công ty tư nhân của Trung Quốc tạo ra khoảng 1,7 nhân dân tệ doanh thu trên mỗi nhân dân tệ tài sản, nhiều hơn gấp đôi so với tỉ lệ 0,7% của các doanh nghiệp nhà nước. Trong khi đó, ở Việt Nam, theo thống kê của Ngân hàng thế giới, năng suất của lĩnh vực tư nhân đã giảm trong thập kỷ qua xuống còn 0,7%, tương đương với các doanh nghiệp nhà nước.
Theo Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), mặc dù được hưởng lợi từ các dòng vốn đầu tư nước ngoài, chỉ có 36% doanh nghiệp Việt Nam là hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu. Con số này vẫn còn khá khiêm tốn so với 60% doanh nghiệp xuất khẩu của Malaysia và Thái Lan. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt vẫn chưa đóng góp được nhiều vào thành quả xuất khẩu ngành công nghiệp điện tử.
Bất chấp những tồn đọng, Việt Nam vẫn có cơ sở để lạc quan vào sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Trong năm 2017, Ngân hàng thế giới sẽ bắt đầu lộ trình cắt giảm các khoản vay ưu đãi với Việt Nam. Với Việt Nam, đây sẽ là thời khắc để nhìn lại những thành tựu mà quốc gia đã đạt được cũng như chớp lấy cơ hội trở thành động lực tăng trưởng quan trọng của khu vực trong những năm sắp tới. Đó sẽ là cơ hội để Việt Nam trở thành quốc gia thành công lớn tiếp theo của châu Á.
Theo_Kiến Thức
Tăng trưởng GDP: Việt Nam trông đợi gì? Lần đầu tiên nông nghiệp tăng trưởng âm, còn công nghiệp tiếp tục phụ thuộc vào FDI, sản xuất, xuất khẩu dù nhiều nhưng phần Việt Nam nhận được ngày càng ít. TS Lưu Bích Hồ, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển chia sẻ với Đất Việt một số đánh giá về bức tranh kinh tế Việt Nam qua số liệu...