Gánh nặng ung thư
Bệnh ung thư ngày càng gia tăng, trong khi đó chi phí cho chẩn đoán, điều trị cũng ngày càng tăng, là gánh nặng lớn cho người bệnh và cả hệ thống y tế.
Bệnh nhân ung thư đang điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy – ẢNH: DUY TÍNH
Thống kê của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), số ca mắc mới ung thư (UT) tại VN không ngừng gia tăng, từ 68.000 ca năm 2000 lên 126.000 năm 2010. Năm 2018, số ca mắc mới tăng lên gần 165.000, trong đó gần 70% trường hợp tử vong, tương đương khoảng 115.000 ca.
Số tử vong gấp 9 lần tai nạn giao thông
“Chi phí điều trị cao, tỷ lệ mắc UT ngày càng gia tăng là gánh nặng cho người bệnh”
TS- BS Bùi Vinh Quang, Giám đốc BV Ung bướu Hà Nội
Với 20 năm công tác chuyên ngành, TS-BS Bùi Vinh Quang, Giám đốc Bệnh viện (BV) Ung bướu Hà Nội, cho biết tại VN, theo ước tính chưa đầy đủ, mỗi năm có khoảng 126.000 ca mắc mới và 94.000 ca tử vong do UT, gấp 9 lần con số tử vong do tai nạn giao thông. Ước tính đến năm 2020 sẽ có tối thiểu 189.344 ca UT mới mắc.
TS Vinh Quang lưu ý, tại VN tính chung cả 2 giới, 5 loại UT có tỷ lệ mắc nhiều nhất gồm: UT gan (chiếm 15,4%), UT phổi (14,4%), UT dạ dày (10,6%), tiếp theo là UT vú, UT đại tràng. Trong đó, UT phổi là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở nam giới và là nguyên nhân thứ hai gây tử vong do UT ở phụ nữ. Mỗi năm VN có khoảng 22.000 ca mắc mới và 19.500 bệnh nhân (BN) tử vong do UT phổi.
BV Ung bướu TP.HCM thực hiện việc ghi nhận UT quần thể TP.HCM (population-based) và ghi nhận UT BV (hospital based) từ năm 1995 đến nay.
Theo đó, mỗi năm có hàng chục ngàn trường hợp UT mắc mới, gồm các BN có hộ khẩu tại TP.HCM và ở các tỉnh lên điều trị tại TP.HCM. Công trình được sự hợp tác của các BV lớn trong TP và được giám sát về kỹ thuật và chất lượng số liệu bởi Cơ quan Nghiên cứu UT quốc tế (IARC) của WHO. Công trình nghiên cứu trong hơn 20 năm từ 1995 đến nay đã có các kết luận như sau: Tại TP.HCM tỷ lệ bệnh mắc UT từ 130 – 145/100.000 dân. Ở nam giới, chỉ riêng 5 loại UT đứng đầu là phổi, gan, đại trực tràng, dạ dày và đầu cổ. Còn ở nữ, 5 UT đứng đầu là vú, cổ tử cung, đại trực tràng, phổi và tuyến giáp.
Nguy cơ bởi ô nhiễm, thực phẩm “bẩn”…
Tuổi mắc UT ở VN trẻ hơn thế giới
Theo TS-BS Phạm Xuân Dũng, Giám đốc BV Ung bướu TP.HCM, nhiều loại UT xảy ra khi ngoài tuổi 40. Còn UT xảy ra ở người trẻ là từ 20 – 40 tuổi. Phân tích số liệu ghi nhận UT quần thể TP.HCM cho thấy: Tuổi mắc UT trung bình của BN UT tại TP.HCM là 55, trẻ hơn so với thế giới là 64 tuổi.
“Theo tôi hiện nay UT phổi, đường tiêu hóa bao gồm gan, khoang miệng, thực quản, dạ dày, đại trực tràng đang có xu hướng gia tăng mạnh nhất. Có thể do ô nhiễm các chất độc hại, thuốc trừ sâu trong quá trình sản xuất nông sản thực phẩm, hóa chất bảo quản, quá trình chế biến thực phẩm sử dụng thực phẩm cháy, thực phẩm hun khói, lối sống ăn uống không hợp lý, sử dụng đồ uống có cồn, thuốc lá, ăn thức ăn nhiều mỡ động vật ít các thành phần chất xơ và vitamin A, C, E là các yếu tố nguy cơ gây UT”, TS Bùi Vinh Quang khuyến cáo và cho biết thêm: “Với UT phổi thì thuốc lá là nguyên nhân chính dẫn đến bệnh này. Các nghiên cứu cho thấy khoảng 90% số lượng ca UT phổi có hút thuốc lá và những người hút 40 bao trong 1 năm có nguy cơ bị UT phổi cao gấp 20 lần so với người không hút thuốc. Trong khi đó, UT gan do mắc viêm gan B, C và xơ gan do rượu”.
Theo TS-BS Phạm Xuân Dũng, Giám đốc BV Ung bướu TP.HCM, ô nhiễm không khí đã được chính thức phân loại là nguyên nhân gây UT bởi IARC. Theo IARC, ô nhiễm không khí từ giao thông và khói công nghiệp là nguyên nhân gây UT phổi và cũng liên quan đến UT bàng quang. Vấn đề thực phẩm gây UT thường là do các chất bảo quản, tạo màu và bao bì chứa thực phẩm. Hiện nay IARC thường xuyên cập nhật và công bố các chất có thể sinh UT (tùy mức độ nguy cơ được đánh số từ 1 – 3).
Video đang HOT
Gánh nặng tài chính
9 dấu hiệu cảnh báo ung thư
- Viêm loét lâu liền
- Ho dai dẳng, tức ngực, điều trị không đỡ
- Chậm tiêu, khó nuốt
- Thay đổi thói quen bài tiết phân, nước tiểu
- Có khối u ở vú hay trên cơ thể
- Hạch bạch huyết to không bình thường
- Ra máu, dịch ra bất thường ở âm đạo
- Ù tai, nhìn đôi
- Gầy sút, thiếu máu không rõ nguyên nhân
Nguồn: BV K T.Ư
Chia sẻ về gánh nặng UT, TS-BS Vinh Quang cho hay chẩn đoán và điều trị UT là một khó khăn lớn đối với BN cũng như BS. Vì chẩn đoán và điều trị UT cần độ chính xác cao về giải phẫu bệnh học và giai đoạn bệnh. Chẩn đoán giai đoạn của bệnh UT hiện nay được sử dụng nhiều xét nghiệm tiên tiến như chụp CT64, CT128, CT256 dãy, chụp cộng hưởng từ, PET-CT… những xét nghiệm này có giá thành rất cao, trung bình 2,5 – 10 triệu đồng tùy theo xét nghiệm.
Đặc biệt, trong chẩn đoán giai đoạn bệnh của một số UT thì chụp PET-CT cũng được khuyến cáo nên dùng cho độ nhạy và độ đặc hiệu cao góp phần cho quá trình điều trị, chi phí làm cũng dao động từ 23 – 30 triệu đồng. Chính vì lý do đó ngay trước khi điều trị UT thì việc chẩn đoán bệnh cũng là một khó khăn về mặt tài chính đối với BN và gia đình cũng như với BHYT.
Ngoài ra, điều trị UT gồm 3 phương pháp chính là phẫu thuật, hóa chất và xạ trị, có thể thêm điều trị nhắm trúng đích và điều trị miễn dịch.
Phẫu thuật UT thường rất rộng triệt căn nên có tính tàn phá cao. Việc phẫu thuật vi phẫu, phẫu thuật tạo hình sau điều trị UT (như UT vú, đầu cổ) nhằm mang lại thẩm mỹ cho BN đang được triển khai nhưng chi phí là khá cao.
Đặc biệt, trong lĩnh vực xạ trị nhiều phương pháp mới cũng đang được áp dụng cho điều trị UT đầu cổ, phổi, tuyến tiền liệt, vú… Như xạ trị điều biến liều (IMRT), xạ trị điều biến liều theo thể tích hình cung VMAT đang thực hiện mang lại hiệu quả cao hạn chế tác dụng phụ nhưng giá thành của một ngày điều trị cũng cao, thường từ 1,5 – 1,7 triệu đồng.
Hóa chất cho điều trị cũng là một vấn đề (trung bình điều trị hóa chất một đợt khoảng 10 – 30 triệu đồng tùy từng phác đồ) vì chủ yếu bệnh phát hiện ở giai đoạn muộn và cần có hóa chất bổ trợ hoặc hóa chất điều trị triệt căn nên ít nhất cũng từ 4 – 6 đợt điều trị.
Bên cạnh đó là điều trị trúng đích và điều trị miễn dịch có mang lại hiệu quả khả quan trên lâm sàng và cũng đang được áp dụng tại VN. Để điều trị được thuốc này BN cần làm một số xét nghiệm quan trọng và khá đắt đỏ, khi điều trị thuốc cũng cần phải chi phí một lượng tiền khá lớn. Ví dụ như điều trị UT phổi không tế bào nhỏ có đột biến gien EGFR cũng phải tốn khoảng 40 – 50 triệu đồng/tháng. Điều trị UT gan bằng thuốc điều trị trúng đích tốn khoảng 110 – 120 triệu đồng/tháng.
“Chi phí điều trị cao, tỷ lệ mắc UT ngày càng gia tăng là gánh nặng cho người bệnh”, TS Vinh Quang nói.
Theo TS-BS Phạm Xuân Dũng, hiện nay với sự phát triển của kỹ thuật hiện đại trong chẩn đoán và điều trị, chi phí điều trị UT tiếp tục gia tăng không chỉ ở VN mà trên toàn thế giới. Ví dụ như kỹ thuật PET-CT, kỹ thuật sinh học phân tử, xét nghiệm gien… trong chẩn đoán; các loại phẫu thuật kỹ thuật cao như phẫu thuật bảo tồn, tạo hình trong UT… cũng tốn kém. Các loại máy móc xạ trị kỹ thuật cao cũng làm gia tăng chi phí. Trong hóa trị, các thuốc thế hệ mới đều có chi phí vài chục triệu đồng mỗi tháng.
Theo thanhnien
Phòng bệnh tiểu đường
Tiểu đường đang ngày càng trở thành gánh nặng về kinh tế xã hội, làm giảm chất lượng cuộc sống. Tiểu đường type 2 chiếm đa số, là căn bệnh nguy hiểm nhưng hoàn toàn có thể phòng ngừa được.
Tiểu đường đang được xem là đại dịch toàn cầu, có dấu hiệu gia tăng từng ngày và trở thành mối hiểm họa đe dọa tính mạng hàng trăm triệu người trên thế giới. Theo Tổ chức Y tế thế giới, năm 2010 dân số thế giới có đến 6,6% mắc bệnh tiểu đường và 7,9% rối loạn dung nạp đường. Tại Việt Nam, năm 2002 chỉ có 2,7% người mắc nhưng đến năm 2012 là 5,7% người mắc tiểu đường và 12,8% rối loạn dung nạp đường. Như vậy, sau 10 năm, bệnh tiểu đường tại Việt Nam có tốc độ gia tăng cực nhanh so với trung bình của thế giới.
"Tiểu đường được định nghĩa là tình trạng rối loạn chuyển hóa gây tăng đường huyết mạn tính do thiếu hụt hoặc giảm hoạt động của insulin."
Các loại tiểu đường
Tiểu đường type 1: thường gặp ở người trẻ tuổi do tuyến tụy không sản xuất insulin được. Biểu hiện bệnh khá "rầm rộ" với ăn nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều, gầy nhiều và nhanh, mệt mỏi.
Tiểu đường type 2: thường gặp nhất (>90%), bệnh có liên quan di truyền, thừa cân - béo phì, ít vận động... Bệnh thường tiến triển thầm lặng, tình cờ phát hiện bệnh do khám sức khỏe hay vì biến chứng của cao huyết áp, mờ mắt, vết thương lâu lành...
Các yếu tố nguy cơ tiểu đường type 2:
- Thừa cân, béo phì (BMI 23).
- Tăng huyết áp ( 140/90mmHg).
- Trong gia đình có người thân mắc bệnh tiểu đường.
- Phụ nữ sinh con 4kg hoặc 2,5 kg.
- Được chẩn đoán rối loạn dung nạp đường.
- Được chẩn đoán rối loạn chuyển hóa lipid.
- Người gốc Châu Á, Châu Phi sống ở các nước công nghiệp phát triển hoặc dân cư có sự thay đổi nhanh chóng lối sống như chế độ dinh dưỡng dư thừa, ít vận động.
Tiểu đường thai kỳ: tình trạng rối loạn đường huyết khi mang thai, thường phát hiện từ tháng thứ 4 của thai kỳ. Bệnh thường khỏi sau khi sinh con, nhưng cũng có thể phát triển thành tiểu đường type 2 sau 10-15 năm.
Tiểu đường thứ phát: hiếm gặp, thường do tổn thương tụy hoặc do sử dụng thuốc.
Tiền tiểu đường
Lượng glucose (đường) bình thường trong máu khi đói (nhịn ăn ít nhất là 8 giờ) từ 70-100mg/dL; bệnh tiểu đường được chẩn đoán khi lượng glucose trong máu khi đói cao hơn 126mg/dL. Khi lượng glucose trong máu khi đói từ 100-125mg/dL thì bạn bị rối loạn dung nạp đường hay còn gọi là tiền tiểu đường, có nghĩa lượng glucose trong máu cao hơn mức bình thường nhưng chưa đến mức để chẩn đoán là bệnh tiểu đường. Hầu hết người bệnh tiểu đường type 2 đều trải qua giai đoạn tiền tiểu đường.
Có thể ngăn chặn tiểu đường type 2
Tiền tiểu đường không gây ra bất cứ dấu hiệu hay triệu chứng gì. Cách duy nhất để có thể xác định là xét nghiệm máu, thử lượng glucose trong máu lúc đói. Nếu bạn có các yếu tố nguy cơ như quá cân, ít vận động thể lực, lớn hơn 50 tuổi, tiền căn trong gia đình có người bị tiểu đường type 2, phụ nữ từng bị tiểu đường thai kỳ... thì nên xét nghiệm đường máu định kỳ và cần sự tư vấn của bác sĩ.
Tiền tiểu đường là một dấu hiệu cho biết bạn đang có nguy cơ rất cao sẽ bị tiểu đường type 2. Đã có các nghiên cứu chứng minh rằng sự tiến triển đến bệnh tiểu đường type 2 có thể bị trì hoãn hay được ngăn ngừa vĩnh viễn nếu việc chữa trị được tiến hành ngay từ khi bị tiền tiểu đường.
Một số dấu hiệu cơ bản khi bị tiểu đường
Biện pháp điều trị chính yếu của tiền tiểu đường là giảm cân và tăng cường vận động thể lực. Chỉ cần giảm được 10% trọng lượng cơ thể thì đã đủ để ổn định được lượng glucose trong máu cùng với một chương trình luyện tập thể dục trung bình mỗi lần 30 phút, 3-4 lần một tuần. Điều này còn giúp cải thiện các vấn đề sức khỏe khác như tăng huyết áp, tăng cholesterol, các bệnh lý xương khớp...
Việc thay đổi lối sống bao gồm giảm cân và tăng vận động thể lực là có thể ngăn ngừa hay làm chậm tiến trình xuất hiện bệnh tiểu đường type 2. Giảm cân bằng cách xây dựng chế độ ăn hợp lý, đảm bảo đủ nhu cầu năng lượng và cân đối các thành phần dinh dưỡng, hạn chế các thức ăn làm tăng đường huyết nhanh như đường, bánh ngọt, kẹo mứt, cơm...; tăng cường các thức ăn giúp làm chậm hấp thụ đường như rau, củ, quả...; phân bố bữa ăn hợp lý, ăn đủ bữa, không bỏ bữa sáng.p
BS CK1 Trần Thị Minh Nguyệt
Theo sggp
Bàn tay bàn chân lạnh có đáng lo không? Lạnh bàn tay và bàn chân nằm trong số những thay đổi bình thường mà cơ thể trải qua khi tiếp xúc với nhiệt độ thấp. Chúng cũng có thể xảy ra trong những thời điểm khác mà không có yếu tố kích hoạt đặc biệt mạnh nào. Người bị hội chứng Raynaud cần đeo găng tay và đi tất để chống lạnh...