Fitch giữ nguyên xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam, điều chỉnh triển vọng từ tích cực xuống ổn định
Tổ chức Fitch Ratings (“Fitch”) vừa thông báo về việc giữ nguyên xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam ở mức BB và điều chỉnh triển vọng từ Tích cực sang Ổn định.
Tín dụng của Việt Nam chưa bị ảnh hưởng
Cơ sở Fitch điều chỉnh triển vọng tín nhiệm từ Tích cực sang Ổn định phản ánh đánh giá của tổ chức này về tác động ngày càng lan rộng của đại dịch Covid-19 tới nền kinh tế toàn cầu, ảnh hưởng tiêu cực đến điều kiện tín dụng trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam, thông qua các kênh xuất khẩu, du lịch và sự giảm sút của tổng cầu.
Thông tin thêm về việc xếp hạng này, Bộ Tài chính cho biết, trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp, khó lường như hiện nay, việc Fitch xác nhận giữ nguyên bậc tín nhiệm quốc gia ở mức BB phản ánh nhận định các điểm sáng về tín dụng của Việt Nam vẫn không bị ảnh hưởng, trong đó bao gồm tiềm năng phát triển vững chắc trong trung hạn, môi trường kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định; gánh nặng nợ Chính phủ được kiểm soát ở mức thấp và khả năng tiếp cận nguồn tài chính đối ngoại thuận lợi hơn so với các quốc gia cùng nhóm xếp hạng.
Tổ chức này cũng đánh giá cao việc Việt Nam đã tận dụng điều kiện kinh tế thuận lợi trong những năm qua để củng cố tình hình tài khóa và tích lũy dự trữ ngoại hối, góp phần tăng mức đệm dự phòng trước những rủi ro vĩ mô.
Fitch điều giữ nguyên xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam ở mức BB
Trong tháng vừa qua, Fitch đã có động thái điều chỉnh đánh giá tín nhiệm tiêu cực đối với 19 nước trên toàn cầu, trong đó 12 quốc gia bị hạ bậc tín nhiệm và 7 quốc gia bị hạ triển vọng.
“Bộ Tài chính cùng các cơ quan liên quan đã và đang phối hợp chặt chẽ, cập nhật thông tin cho Fitch về tình hình kinh tế – xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh dịch bệnh tiếp diễn. Qua đó, Bộ Tài chính tin rằng Fitch cũng như các tổ chức xếp hạng tín nhiệm khác sẽ có thông tin đầy đủ để đưa ra nhìn nhận đúng đắn, tích cực về hồ sơ tín dụng của Việt Nam trong tương lai” – Bộ Tài chính cho biết.
Tăng trưởng GDP năm nay có thể giảm xuống 3,3%
Video đang HOT
Ngoài ra, Fitch dự báo do đại dịch, tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ giảm xuống còn 3,3% vào năm 2020, từ mức 7,0% vào năm 2019. Đây sẽ là tốc độ tăng trưởng hàng năm thấp nhất kể từ giữa những năm 1980.
Fitch thừa nhận, dự báo về tăng trưởng năm 2020 rất không chắc chắn và có nguy cơ GDP còn giảm thêm, tùy thuộc vào diễn biến của đại dịch, cả ở Việt Nam và cũng như các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam.
“Cho đến nay, Việt Nam đã ghi nhận số lượng mắc Covid-19 tương đối thấp, nhưng có thể tăng lên và phần lớn cả nước đã phải hạn chế các hoạt động kinh tế để ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh”, báo cáo của Fitch nêu.
Theo nhận định của tổ chức này, các ngành du lịch và xuất khẩu đặc biệt dễ bị tổn thương bởi dịch bệnh. Du lịch đóng góp trực tiếp 10% GDP nhưng đóng góp của nó vào GDP nói chung cao hơn con số này thông qua các tác động gián tiếp. Lượng khách du lịch trong tháng 3/2020 giảm khoảng 68% so với cùng kỳ.
Về xuất khẩu, Fitch cũng cho rằng, các thị trường lớn của Việt Nam đang suy giảm, bao gồm Mỹ và Trung Quốc. Xuất khẩu yếu khiến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực sản xuất bị ảnh hưởng. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện quý 1/2020 ước tính đạt 3,9 tỉ USD, giảm 6,6% so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo nhận định của Fitch, tài khoản vãng lai Việt Nam sẽ chuyển sang thâm hụt nhẹ vào năm 2020, từ mức thặng dư khoảng 3,0% năm 2019, do xuất khẩu, du lịch và kiều hối giảm, tuy nhiên sẽ thặng dư trở lại năm 2021 khi nền kinh tế toàn cầu phục hồi.
Với các biện pháp hỗ trợ của Chính phủ với doanh nghiệp, người dân, Fitch cho rằng, thâm hụt ngân sách năm 2020 sẽ tăng lên 6,5% GDP từ mức ước tính 3,4% vào năm 2019. Điều này sẽ khiến tổng nợ của chính phủ tăng lên 42,5% GDP, từ khoảng 38% GDP vào năm 2019.
Theo đánh giá của Fitch, các giải pháp mà Ngân hàng Nhà nước thực hiện thời gian qua như: cắt giảm lãi suất, chỉ điều chỉnh nhẹ tỷ giá (mức giảm ít hơn nhiều các nước trong khu vực), dự trữ ngoại hối đạt mức cao kỷ lục 78,5 tỷ USD vào năm 2019… khiến tỷ lệ thanh khoản của Việt Nam có khả năng vẫn vượt xa mức trung bình của “BB”, ở mức khoảng 300%.
Với các triển vọng này, Fitch kỳ vọng kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi vào năm 2021, với mức tăng trưởng dự kiến là 7,3% khi sức cầu trong và ngoài nước dần hồi phục, xuất khẩu, du lịch và FDI tăng trở lại.
Hà Loan
Kinh tế sẽ hồi phục trong quý III/2020
GDP quý II năm nay ước chỉ tăng khoảng 2% so với quý II năm 2019, chỉ số VN-Index giảm 28%, xuất khẩu giảm khoảng 25%.
Dự kiến, từ quý III tăng trưởng phục hồi. Đây là thông tin được nêu trong Báo cáo đánh giá tác động của Covid-19 đến nền kinh tế và các khuyến nghị chính sách ứng phó của trường Đại học Kinh tế quốc dân.
Nhiều kịch bản cho nền kinh tế
Báo cáo cho rằng, nếu dịch Covid-19 kéo dài đến hết tháng 4/2020, có 49,2% DN vẫn duy trì được hoạt động sản xuất kinh doanh; 31,9% cắt giảm quy mô sản xuất; có 18,1% phải tạm dừng hoạt động và 0,8% có khả năng phá sản.
Tuy nhiên, nếu dịch kéo dài đến hết tháng 6/2020, tình hình sẽ trở nên tồi tệ hơn khi chỉ còn 14,9% DN duy trì được hoạt động; 46,6% DN tiếp tục cắt giảm quy mô; 32,4% sẽ tạm dừng hoạt động và 6,1% DN đứng trên bờ vực phá sản. Tỷ lệ DN có khả năng phá sản sẽ tăng cao, đến mức 19,3% nếu dịch kéo dài đến hết tháng 9/2020 và 39,3% nếu dịch kéo dài đến hết năm nay.
Sản xuất thiết bị điện tử tại Công ty Hanel, Khu công nghiệp Sài Đồng, quận Long Biên. Ảnh: Chiến Công
Theo báo cáo này, tăng trưởng GDP quý II của Việt Nam dự báo khoảng 2,0% so với cùng kỳ và thậm chí suy thoái nếu xảy ra kịch bản xấu. Dự kiến, từ quý III tăng trưởng phục hồi. Xuất khẩu giảm từ khoảng 25% trong quý II và phục hồi về mức giảm 15% trong các quý sau của năm 2020.
Tránh tối đa đổ vỡ các tập đoàn lớn
Trong bối cảnh đó, khuyến nghị của nhóm nghiên cứu là cần có sự lựa chọn hợp lý các chính sách cũng như đối tượng hỗ trợ. Bởi một số ngành chịu ảnh hưởng nặng nề, nhưng một số ngành vẫn có cơ hội phát triển tốt. Đồng thời, cần phải xây dựng nhiều kịch bản chính sách kinh tế khác nhau nhằm ứng phó với tình hình dịch ở cả Việt Nam lẫn các nước khác trên thế giới.
Độ mở lớn của kinh tế Việt Nam dẫn đến việc đại dịch có thể được kiểm soát ở Việt Nam cũng không thể làm cho nền kinh tế phục hồi ngay nếu nó vẫn tiếp diễn ở các quốc gia khác.
Báo cáo nhận định, nếu bệnh dịch trong nước có thể kiểm soát ngay trong tháng 4 hoặc cùng lắm đến hết quý II thì phản ứng chính sách nên mang tính "hỗ trợ".
Nếu bệnh dịch kéo dài hơn (đến quý III hoặc hết năm 2020) Chính phủ cần tính tới các biện pháp can thiệp mạnh mẽ hơn mang tính "giải cứu".
Các chính sách cần hướng đến việc cải thiện khả năng thanh khoản, kéo dài khả năng chống đỡ của DN và đảm bảo an sinh xã hội. Đặc biệt quan tâm đến những khu vực dễ bị tổn thương như người lao động, các DN nhỏ và vừa trong ngắn hạn (đặc biệt tại những ngành chịu ảnh hưởng nặng nề nhất) nhưng đồng thời cũng cần tránh sự đổ vỡ của các DN lớn, đầu tầu để từ đó lan sang các khu vực khác.
NHNN cần sẵn sàng bơm thêm thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Lãi suất có thể cắt giảm thêm 1 - 2%. Khi các chính sách tiền tệ hay tài khóa truyền thống không đủ hỗ trợ khả năng thanh toán của DN thì cần có các can thiệp tài khóa trực tiếp từ Chính phủ như: Mua lại nợ, tăng sở hữu vốn nhà nước... ở một số lĩnh vực đặc biệt quan trọng. Cần tránh tối đa sự đổ vỡ của các tập đoàn lớn.
Các tổ chức tín dụng cần công bố cụ thể và minh bạch các tiêu chí, quy trình hỗ trợ để DN và thị trường cùng nắm bắt được. Sự hỗ trợ từ phía ngân hàng chia làm 2 phương án. Phương án thứ nhất là gói cho vay (gói hỗ trợ 250.000 tỷ đồng mà các ngân hàng cam kết giải ngân và các gói khác nếu có) để hỗ trợ thanh khoản cho các DN "sống sót" qua mùa dịch.
Phương án thứ hai là "tân trang" các khoản nợ có nguy cơ "xấu" bởi Covid-19, để DN có thêm thời gian phục hồi, chẳng hạn như cơ cấu thời hạn trả nợ, giảm lãi, phí hay giữ nguyên nhóm nợ. Với Bộ Tài chính, thay vì chỉ là giãn, tạm hoãn cần thực hiện giảm thuế, miễn thuế, chi phí thuê mặt bằng...
Trong bối cảnh cầu chi tiêu từ khu vực DN và người dân giảm mạnh, Nhà nước cần đóng vai trò là đối tượng chi tiêu chính. Theo nhóm nghiên cứu, để tránh việc lạm dụng chính sách tiền tệ gây ra các bất ổn kinh tế vĩ mô trong dài hạn, cần các chính sách kích thích tổng cầu chủ yếu thông qua tăng đầu tư của Nhà nước vào cơ sở hạ tầng.
Đầu tư công phải đúng mục đích, tập trung vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng đã được phê duyệt và cần đúng thời điểm mà nền kinh tế cần. Cần có sự giám sát chặt chẽ của Quốc hội để tránh xảy ra những hệ lụy tiêu cực.
"Việc Chính phủ đang tập trung toàn bộ nguồn lực vào trong đầu tư phòng chống dịch có lẽ là một giải pháp trọng tâm, bởi càng đầu tư phòng chống dịch nhanh, tốt thì chúng ta sẽ càng có cơ hội để cho nền kinh tế sớm phục hồi. Ngoài ra, báo cáo cũng đưa ra các giải pháp để làm giảm bớt những khó khăn của DN, đặc biệt là các khoản đóng góp, những chi phí mà đang tạo ra gánh nặng cho DN. " - Phó Hiệu trưởng Đại học Kinh tế Quốc dân Hoàng Văn Cường
Thảo Nguyên
VCCI: Cần hỗ trợ doanh nghiệp như ứng phó với dịch COVID-19 Các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, hộ kinh doanh cá thể sẽ là đối tượng dễ bị tổn thương từ hệ quả của đại dịch, thậm chí là khủng hoảng về tài chính và hậu quả kinh tế nếu không có sự hỗ trợ kịp thời. Ra Tết, các đơn hàng xuất đi của Công ty phát triển Nông nghiệp và Tư...