Đừng vượt quá giới hạn với… café
Cà phê là loại thức uống thường ngày và phổ biến nhất trên thế giới hiện nay. Về y học, cà phê có nhiều tác động lên sức khỏe con người…
Ảnh minh họa: ITN
Sự thật về café đen “chay”
Theo các chuyên gia, cây cà phê có quê hương là Đông Phi và các vùng chạy theo đường xích đạo như Madagascar, Réunion, Mauritius, Comoros…, từ đó được nhân giống và lan tỏa đi khắp nơi trên thế giới như ngày nay.
Có hai giống cà phê được trồng nhiều hiện nay là cà phê vối và cà phê chè. Cà phê có tính axit nhẹ và đặc biệt có thành phần cafeine gây tác động lên thần kinh và tim mạch một cách rõ rệt nhất. Chất này có thể gây… nghiện ở nhiều người uống. Do đó, khi không uống thì thấy thiếu vắng và… “nhớ nhung”.
Loại thức uống có tên… cà phê (café/coffee) được làm từ hạt cà phê chín phơi hoặc sấy khô rồi rang xay. Quá trình đó có thể có thêm những chất “phụ gia” để cho thơm hơn, ngon hơn thuộc “bí quyết” của các nhà sản xuất.
Có nhiều thành phần cùng góp mặt ở trong một ly cà phê. Theo công bố khoa học của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, trong một ly cà phê đen, không sữa, không kem, không đường có đến 1.000 thành phần hóa học khác nhau, trong đó có một số thành phần cơ bản: Chất đạm (protein), chất khoáng (Natri, Kali, Magne, Mangan, Phosphore, Folate) và vitamine (B1-Thiamine, B2-Riboflavin, B3-Niacin, B5-Acid Pentothenic). Một ly cà phê như vậy chỉ mang tính giải khát, tạo cảm giác sảng khoái và không bổ sung năng lượng, vì “nó” có số calo là 01.
Khi sử dụng cà phê cần lưu ý, nếu các thành phần như đường, kem, sữa, siro, hương liệu… được thêm vào trong ly cà phê đen “chay” tạo thức uống mang các thương hiệu như Cappuccino, Latte, Mocha… danh tiếng thì sẽ có nhiều chất béo (lipid) và lượng calo không kém gì một ổ bánh mì thịt nguội, dăm bông!
Ảnh minh họa: ITN
Video đang HOT
Nếu sử dụng đúng…
Một loại hóa chất đặc biệt có trong cà phê gọi là cafeine. Chính chất cafeine tạo ra sự tác động chủ yếu lên sức khỏe con người và được biểu hiện rõ rệt nhất qua hệ thống thần kinh và tim mạch. Tùy cơ địa và tùy lượng cafeine đưa vào cơ thể mà ở mỗi người có sự “đáp ứng” khác nhau khi uống cà phê.
Nói chung, với “liều lượng” cafeine trung bình từ 50 – 300 mg sẽ tạo ra tác động tích cực như làm tăng sự hưng phấn, sự tỉnh táo và độ tập trung công việc của người uống. Nhưng nếu càng vượt qua giới hạn đó bao nhiêu sẽ càng tạo ra sự tác động tiêu cực bấy nhiêu như kích thích tăng nhịp tim, gây mất ngủ, gia tăng sự bồn chồn, lo lắng, tạo cảm giác bất an và khó tập trung vào công việc.
Một nghiên cứu ở nước ngoài đã đưa ra kết luận, nếu sử dụng đến 11 ly cà phê trong một ngày chắc chắn sẽ có mặt trên giường của Khoa Hồi sức cấp cứu bệnh viện cấp tỉnh hoặc thành phố.
Các nhà nghiên cứu đã tìm ra những tác động tích cực của cà phê đối với sức khỏe con người qua việc phòng tránh các bệnh lý sau đây:
- Bệnh trầm cảm: Các thành phần có tác dụng chống oxy hóa làm giảm các stress oxy hóa gây ảnh hưởng bất lợi cho các tế bào thần kinh. Tác dụng gây hưng phấn với một lượng cafeine nhất định (50 – 300mg) sẽ phòng chống bệnh trầm cảm và thậm chí là ngăn ngừa được ý định tự sát của người bệnh. Mức độ sử dụng trong các trường hợp này được khuyên là không quá 6 ly mỗi ngày.
- Các bệnh ung thư: Cafeine có tác dụng giảm viêm, mà viêm là yếu tố nguy cơ của nhiều bệnh ung thư. Khả năng cản trở sự phát triển và lây lan tế bào ung thư của cafeine có thể gây tác động bất lợi cho quá trình hình thành và phát triển ung thư.
Cafeine kích thích sự sản xuất axit mật của gan, gia tăng tốc độ tiêu hóa thức ăn qua ruột non. Nhờ vậy làm giảm đáng kể lượng chất có khả năng gây ung thư mà niêm mạc ruột tiếp xúc. Ngoài ra, cafeine còn có tác dụng giảm lượng estrogen là loại hormone đóng vai trò liên quan trong một số bệnh ung thư.
- Bệnh sỏi mật: Một số thành phần có trong cà phê có tác dụng ngăn chặn quá trình cholesterol tạo thành tinh thể trong túi mật, đường mật và trong gan. Cafeine còn có tác dụng gia tăng sự co bóp của túi mật, giúp mật lưu thông tốt và tránh được sự lắng đọng của cholesterol trong túi mật cũng như ở các đường dẫn mật. Nhờ vậy, cà phê có tác dụng ngăn ngừa bệnh sỏi mật của hệ thống gan mật trong cơ thể.
- Bệnh tiểu đường: Các nghiên cứu cho thấy, những người uống cà phê mỗi ngày thì nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 sẽ thấp hơn những người không uống ly cà phê nào. Các “thành viên” có trong cà phê như magne, polyphenol và những chất khác có thể tác động hiệu quả đến quá trình chuyển hóa insulin và glucose.
- Bệnh Parkinson và Alzeimer: Nhờ có thành phần cafeine và các chất chống oxy hóa khử nên cà phê có tác dụng phòng ngừa các bệnh lý này qua việc bảo vệ và kích thích tế bào thần kinh hoạt động. Các nghiên cứu cho biết người uống cà phê thường xuyên tỉ lệ mắc bệnh Alzeimer giảm đến 65% và Parkinson giảm đến 60% so với người không uống cà phê.
Ngoài ra, cà phê còn có tác dụng giảm stress, lượng mỡ trong cơ thể qua việc thúc đẩy chuyển hóa các axit béo trong máu và tế bào thành năng lượng, tăng cường khả năng tình dục, làm giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, làm chậm quá trình lão hóa và nâng cao tuổi thọ do chống lại các chất oxy hóa gây tổn thương tế bào các cơ quan trong cơ thể.
Nếu biết cách sử dụng và sử dụng đúng mức thì cà phê có tác động tích cực mang lại lợi ích cho sức khỏe con người. Nhưng nếu không biết cách sử dụng và lạm dụng thì cà phê sẽ có tác động tiêu cực gây bất lợi cho sức khỏe con người và thậm chí tính mạng bị đe dọa.
Nhiều bệnh nhân bị rối loạn nuốt nhưng không biết
Nhiều bệnh nhân bị rối loạn nuốt nhưng không biết, hoặc có nhận thấy những dấu hiệu bất thường nhưng bỏ qua, đến lúc tình trạng này gây những hậu quả nghiêm trọng thì mới đến bệnh viện để được điều trị.
Rối loạn nuốt là một trong những rối loạn khá phổ biến ở người lớn tuổi, đặc biệt là những người có vấn đề về sa sút trí tuệ, những người có sức khỏe suy giảm do bệnh mạn tính (bệnh phổi mạn tính, các loại bệnh ung thư...). Rối loạn nuốt cũng có thể là di chứng của đột quỵ não, u não, bệnh parkinson...
Khi người bệnh "sợ" ăn
Tiến sĩ Lê Khánh Điền, Phó chủ tịch Hội Ngôn ngữ trị liệu châu Á - Thái Bình Dương, Trưởng khoa Phục hồi chức năng - Bệnh viện An Bình, cho biết: "Rối loạn nuốt có nhiều cấp độ, từ nhẹ đến nặng. Thường thì mọi người không quan tâm đến những rối loạn nhẹ nên bỏ sót, khiến tình trạng này ngày càng trầm trọng. Một điều cần lưu ý là có bệnh nhân bị với cấp độ tăng từ từ, nhưng cũng có những bệnh nhân có thể bị rối loạn nuốt nặng ngay từ đầu, như ở một số trường hợp sau đột quỵ".
Nếu bệnh nhân bị sặc do thức ăn thì sẽ được hướng dẫn để chuyển sang những món ăn đã được xay hoặc nghiền. Ảnh SHUTTERSTOCK
Một biểu hiện của người bị rối loạn nuốt là mỗi lần ăn phải nuốt nhiều lần mới hết, có thể kèm ho; trong khi người thường thì chỉ nuốt một lần là được. Việc nuốt khó khăn làm bữa ăn của bệnh nhân kéo dài hơn.
Ví dụ lúc trước, bệnh nhân ăn một bữa cơm chỉ mất tầm 15 phút, thì hiện tại kéo đến nửa tiếng. Do thời gian tăng lên không quá nhiều, và tăng từ từ nên người nhà, thậm chí cả người bệnh, không để ý, đến lúc nhận ra thì rối loạn nuốt có thể đã trở nên nặng nề.
Ăn uống khó khăn, ăn lâu hơn người khác khiến bệnh nhân ngại ăn, và tình hình ngày càng nặng hơn, đến mức "sợ" ăn, thậm chí từ chối ăn. Nếu không điều trị mà để tình trạng này kéo dài thì người bệnh có nguy cơ bị suy dinh dưỡng, mất nước, thể trạng kém, là điều kiện cho nhiều bệnh khác bùng phát.
Với những trường hợp có biểu hiện rõ hơn, rối loạn nuốt sẽ dẫn đến nuốt sặc, nuốt nghẹn do thức ăn đi vào đường thở. Tiến sĩ Điền giải thích: "Ở người thường, khi nuốt thức ăn đến vùng hầu thì đường vào khí quản phải đóng kín bằng những cơ chế rất phức tạp, để thức ăn chỉ đi vào thực quản. Trong khi đó, bệnh nhân bị rối loạn nuốt thì cơ chế kiểm soát này bị trục trặc, khí quản được đóng không kín, thức ăn sẽ đi lạc vào đó, gây sặc. Một số bệnh nhân rất dễ ho sặc, ngay cả nuốt nước bọt cũng sặc. Ngoài việc bị ho sặc sụa, thức ăn, thức uống đi lạc có thể lọt tiếp vào phổi, gây viêm phổi, phải vào bệnh viện điều trị".
Điều đáng lo ngại là đôi khi, việc thức ăn, thức uống lạc vào khí quản không làm ho sặc rõ rệt, mà gây tình trạng "hít sặc thầm lặng". Trong khi đó, ho là cơ chế bảo vệ để tống những "vật thể lạ" ra. Khi hít sặc thầm lặng, thức ăn, thức uống đi vào đường thở mà không có cơ chế bảo vệ xuất hiện, bệnh nhân không có cảm giác khó chịu nhiều, không ho, không khó thở. Như vậy, thức ăn lọt vào phổi còn thuận lợi hơn so với trường hợp "thức ăn đi lạc vào đường thở có gây ho sặc", và cũng dễ dẫn đến viêm phổi hơn.
Với miếng ăn to, hoặc bệnh nhân nuốt một lần quá nhiều, phần thức ăn đi lạc sẽ có thể gây nghẹn, nếu khí quản bị bít hết thì vô cùng nguy hiểm, cần cấp cứu ngay, chậm trễ có thể dẫn đến tử vong.
Cần đi khám và điều trị sớm
Vì rối loạn nuốt gây ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cuộc sống và có thể dẫn đến những hệ quả nghiêm trọng nên bệnh nhân cần được đưa đi khám và điều trị sớm.
Tiến sĩ Lê Khánh Điền đang khám cho một bệnh nhân bị rối loạn nuốt. Ảnh BSCC
Nếu rối loạn nuốt do các "trục trặc" trước khi thức ăn, thức uống đi vào thực quản thì cần được tư vấn và điều trị phục hồi bởi các chuyên viên ngôn ngữ trị liệu thuộc các khoa Phục hồi chức năng. Bệnh nhân sẽ được chuyên viên ngôn ngữ trị liệu ghi nhận và đánh giá nhiều yếu tố liên quan đến tình trạng rối loạn nuốt, như sức mạnh cơ, khả năng phối hợp cơ; tư thế khi ăn; điều kiện diễn ra bữa ăn (có ồn ào quá không, có mở truyền hình không, có vừa ăn vừa nói chuyện không...). Rối loạn sẽ được xác định nằm ở giai đoạn nào trong quá trình nuốt. Với những bệnh nhân bị nuốt sặc, sẽ được xác định sặc với thức ăn hay thức uống; nếu là thức ăn thì là loại cứng hay lỏng... Bệnh nhân cũng có thể được cho ăn và uống ngay lúc khám để đánh giá trực tiếp.
Sau khi đã biết được nguyên nhân gây rối loạn nuốt, bệnh nhân sẽ được tư vấn, hướng dẫn một số bài tập và đưa ra hướng điều trị thích hợp.
"Có hai mục tiêu chính cho việc điều trị rối loạn nuốt. Thứ nhất là 'nuốt hiệu quả', giúp bệnh nhân không tốn sức nhiều quá mà thức ăn và thức uống vẫn được đẩy xuống hết, không bị đọng lại. Thứ hai là 'nuốt an toàn', bệnh nhân không còn sặc, thức ăn không đi lạc, tránh được nguy cơ viêm phổi", tiến sĩ Lê Khánh Điền chia sẻ.
Chọc ối sàng lọc dị tật có ảnh hưởng thai nhi? PGS Trần Danh Cường - Giám đốc Bệnh viện cho biết, trong 5 năm, Bệnh viện Phụ sản Trung ương chọc ối 11.000 ca, tỷ lệ biến chứng rất thấp, trong khi phát hiện nhiều dị tật thai nhi hơn những năm trước. Trao đổi với báo chí bên lề Hội nghị Sản phụ khoa Việt Pháp lần thứ 22, PGS.TS Trần Danh...