Đừng biến vi khuẩn Whitmore thành vi khuẩn ăn t.hịt n.gười
Trong hai một tuần trở lại đây các thông tin về vi khuẩn ăn t.hịt n.gười tràn ngập trên các mặt báo khiến người dân nơm nớp lo sợ. Trong khi đó các bác sĩ cho rằng vi khuẩn Whitmore cũng giống như các vi khuẩn khác.
Ảnh minh họa.
Bác sĩ Trương Hữu Khanh – Trưởng khoa Nhiễm Thần kinh, Bệnh viện Nhi đồng 1 cho biết ông liên tục nhận được các câu hỏi của phụ huynh về vi khuẩn ăn t.hịt n.gười mang tên Whitemore. Ông thấy ngạc nhiên khi thông tin đều dọa vi khuẩn ăn t.hịt n.gười làm mọi người vô cùng lo lắng.
Bác sĩ Khanh cho biết vi khuẩn ăn t.hịt n.gười trong y khoa có bàn nhưng không phải là cái bệnh mà mạng xã hội đang hoảng, đang bàn. Từ “ăn t.hịt n.gười ” là do vi khuẩn này có tiết ra 2 độc tố gây “t.hối r.ữa thịt” nhưng vi khuần này có tên là Aeromonas hydrophila
Còn cái bệnh đang lan tràn trên cõi mạng có tên Whitmore (hay bệnh melioidosis) và do vi khuẩn Burkholderia pseudomallei gây nên. Bệnh này không phải mới có đây mà đã biết từ rất lâu.
Bệnh là do vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể qua da trầy xước là chính. Vi khuẩn từ từ vết xước đi vào m.áu gây n.hiễm t.rùng m.áu hay áp xe hoại tử nhiều cơ quan trong đó có da và vùng da bị bệnh gây loét hoại tử nên bị gọi là “ăn t.hịt n.gười”. Bệnh gặp ở người lớn nhiều hơn t.rẻ e.m.
Bác sĩ Wynn Huynh Tran – bác sĩ Việt hiện đang công tác tại Mỹ cho biết bệnh Whitmore do một loại vi khuẩn tên là Burkholderia pseudomallei, do bác sĩ Afred Whitmore mô tả năm 1912 tại Miến Điện, từ đó lấy tên Whitmore.
Vi khuẩn này sống trên bề mặt nước và trong đất bùn, nhiều nhất vùng nhiệt đới châu Á. Bác sĩ Wynn cảnh báo vi khuẩn Burkholderia pseudomallei không phải là vi khuẩn ăn t.hịt n.gười. Bất cứ vi khuẩn hay bất kỳ n.hiễm t.rùng nào đều có thể làm hoại tử và dẫn đến “ăn t.hịt n.gười”.
Trong Y khoa, có con vi khuẩn nổi tiếng hơn vì tốc độ hoại tử ăn t.hịt n.gười cực nhanh là liên cầu khuẩn A Streptococcus (GAS) bacteria, cũng là loại vi khuẩn làm viêm họng.
Bình thường, vi khuẩn có mọi lúc mọi nơi trên da chúng ta. Khi da chúng ta bị đứt (vết thương), vi khuẩn sẽ vào bên trong cơ thể qua đường m.áu, dẫn đến n.hiễm t.rùng. Con vi khuẩn Whitmore cũng vậy, khi quý vị tiếp xúc với bùn đất bị trầy xước, vi khuẩn đi vào trong m.áu, phát triển và gây bệnh.
Video đang HOT
Tuy nhiên, đa số nếu bị nhiễm vi khuẩn Burkholderia pseudomallei qua đường m.áu hay đường hô hấp thì sẽ không sao cả. Cơ thể chúng ta có hệ miễn dịch, thường đủ sức mạnh để diệt chúng.
Nếu cơ thể chúng ta yếu (như mắc bệnh mãn tính tiểu đường, bệnh phổi mãn tính, ung thư, bệnh miễn dịch) thì sức đề kháng yếu, dẫn đến vi khuẩn Whitmore phát triển thành bệnh.
Triệu chứng của bệnh Whitmore thường không rõ ràng như bệnh nhân sẽ thấy mệt mỏi, sốt, đau nhức cơ thể, hay buồn ngủ, khiến cho việc chẩn đoán có thể chậm. Thông dụng nhất là n.hiễm t.rùng m.áu (nặng nhất 40-60% ca), n.hiễm t.rùng phổi (bệnh như lao phổi, khó thở, viêm), và n.hiễm t.rùng da (hoạt tử da, tạo áp xe). Chẩn đoán bệnh này dựa vào bệnh sử, cấy vi khuẩn từ m.áu, dịch, hay mủ để tìm.
Điểm quan trọng khác là chẩn đoán bệnh Whitmore thường sai và chậm, dẫn đến các biến chứng của bệnh, làm cho mọi người càng sợ. Chữa trị bệnh Whitmore khá đơn giản, dùng trụ sinh IV ceftazidime để chữa.
Theo infonet
Bệnh whitmore nguy hiểm như thế nào?
Bệnh whitmore hiếm khi lây lan. Bệnh có thể gây nguy cơ t.ử v.ong cao ở những người có hệ miễn dịch yếu hoặc những người vốn có bệnh mãn tính.
Whitmore là bệnh do vi khuẩn Burkholderia pseudomallei gây ra. Vi khuẩn này là thực vật hoại sinh có trong đất ở các vùng nhiệt đới, nhất là đông nam Á và bắc Australia. Con người và loài vật khác bị nhiễm bệnh do phơi nhiễm với vi khuẩn này trong môi trường. Vi khuẩn này xâm nhập vào cơ thể người và động vật khi hít phải bụi hoặc hơi nước nhiễm khuẩn, uống phải nước nhiễm khuẩn, khi tiếp xúc với đất nhiễm khuẩn, đặc biệt thông qua các vết trầy xước.
Một bệnh nhân nữ mắc whitmore khá hy hữu, với trình trạng vi khuẩn whitmore "ăn" cánh mũi điều trị tại Trung tâm Bệnh Nhiệt đới, Bệnh viện Bạch Mai.
Các yếu tố rủi ro của bệnh Whitmore
Các yếu tố rủi ro làm tăng nguy cơ mắc bệnh whitmore bao gồm việc đi du lịch đến hoặc sinh sống tại các khu vực dễ phát tán bệnh. Trên thế giới, hầu hết các ca bệnh được phát hiện ở Malaysia, Singapore, Thái Lan và phía bắc Australia. Người khỏe mạnh có thể mắc bệnh, tuy nhiên những người vốn mắc những bệnh làm yếu hệ miễn dịch lại càng có nguy cơ mắc bệnh Whitmore cao hơn như bệnh HIV/AIDS, ung thư, bệnh phổi mãn tính, (bao gồm COPD), bệnh gan, bệnh tan m.áu bẩm sinh, bệnh tiểu đường và bệnh thận mãn tính.
Bệnh khởi phát sau 1 ngày đến 3 tuần kể từ khi nhiễm bệnh và biểu hiện cấp tính, nhưng 10% ca bệnh có biểu hiện bệnh whitmore mạn tính (trong đó bệnh nhân bị ốm suốt kéo dài trên 2 tháng).
Trên 50% ca bệnh có biểu hiện viêm phổi mắc phải từ cộng đồng và gần 25% số ca bệnh có biểu hiện sốc nhiễm khuẩn.
Bệnh nhân thường bị sốt, đổ mồ hôi, ho (có hoặc không có đờm), và các triệu chứng (như sưng và đau, khó thở, bí tiểu) liên quan đến ổ bệnh khu trú.
Vết loét hoặc áp-xe da, viêm hạch bạch huyết, viêm tuyến mang tai có thể là biểu hiện chính trong một số trường hợp.
Mặc dù đã từng có ca lây bệnh whitmore từ người sang người, bệnh này rất hiếm khi lây lan. Vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể người chủ yếu qua tiếp xúc với đất nhiễm khuẩn.
Theo các chuyên gia y tế, bệnh whitmore có thể biểu hiện ra nhiều triệu chứng khác nhau. Các triệu chứng và dấu hiệu này có thể bị nhầm lẫn với các bệnh khác, do đó bệnh Whitmore rất khó được chẩn đoán kịp thời.
Các chuyên gia y tế chẩn đoán bệnh whitmore bằng cách phân lập vi khuẩn Burkholderia pseudomallei từ m.áu, đờm dãi, nước tiểu, dịch áp-xe hoặc vết thương hở của người nhiễm bệnh. Trong một số ca, các chuyên gia y tế có thể tiến hành kiểm tra kháng thể m.áu để chẩn đoán bệnh Whitmore, tuy nhiên phương pháp này không đáng tin cậy bằng phương pháp nuôi cấy sinh học.
Ở những bệnh nhân đặc biệt nghi mắc bệnh whitmore mà các kết quả nuôi cấy khác đều âm tính, thì cần tiến hành cấy dịch họng và cặn lắng nước tiểu ly tâm trong môi trường chọn lọc.
Bên cạnh đó, cần thực hiện chụp x-quang ngực và chụp CT hay siêu âm bụng và khung chậu cho tất cả ca bệnh để xác định phạm vi của bệnh.
Các phương pháp điều trị bệnh Whitmore
Bệnh Whitmore có thể được điều trị bằng kháng sinh và điều trị kịp thời sẽ có ảnh hưởng tích cực tới kết quả điều trị. Việc điều trị thường bao gồm truyền kháng sinh vào tĩnh mạch (ceftazidime hoặc meropenem) kéo dài 10 đến 14 ngày, sau đó uống kháng sinh (như trimethoprim-sulfamethoxazole hoặc amoxicillin) trong vòng 3 đến 6 tháng.
Bệnh whitmore có thể gây t.ử v.ong nếu không điều trị kịp thời. Bệnh có thể gây nguy cơ t.ử v.ong cao ở những người có hệ miễn dịch yếu hoặc những người vốn có bệnh mãn tính.
Vì vậy, theo các chuyên gia y tế, ở những khu vực mà vi khuẩn gây bệnh lưu hành, người dân có thể phòng bệnh bằng cách tránh tiếp xúc với đất và nước, đặc biệt nếu trên da có vết thương hở. Khi hoạt động ngoài trời, hãy đeo ủng để tránh nhiễm khuẩn qua bàn chân và bắp chân./.
Tháng 8 vừa qua, Trung tâm Bệnh Nhiệt đới, Bệnh viện Bạch Mai lần đầu tiên tiếp nhận một bệnh nhân nữ mắc whitmore khá hy hữu, với trình trạng vi khuẩn whitmore "ăn" cánh mũi. Bệnh nhân trước đó được chẩn đoán bị n.hiễm t.rùng huyết do tụ cầu nhưng tại Trung tâm bệnh Nhiệt đới - Bệnh viện Bạch Mai, cấy m.áu và mủ ở vết thương cho kết quả dương tính với vi khuẩn whitmore.
Theo PGS.TS Đỗ Duy Cường, Giám đốc Trung tâm Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Bạch Mai, nếu như trước đây, 5-10 năm mới có 20 ca mắc whitmore, thì từ đầu năm 2019 đến nay, tại Trung tâm Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Bạch Mai đã ghi nhận tới 20 ca mắc căn bệnh nguy hiểm này. Trong đó riêng tháng 8 đã ghi nhận 12 ca whitmore nặng được chuyển đến chủ yếu từ các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung bộ. Bệnh cảnh lâm sàng đa dạng phức tạp, bệnh nhân được nhập viện từ chuyên khoa khác nhau như hô hấp, cơ-xương-khớp, nội tiết, da liễu, ngoại khoa.../.
Theo VOV