Đưa kinh tế biển trở thành ‘hạt nhân’ động lực cho phát triển
Ngày 11/6, Đoàn giám sát của Ban Kinh tế Trung ương do Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh làm trưởng đoàn đã có buổi làm việc với Tỉnh ủy Phú Yên về việc triển khai Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045″.
Trưởng ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh phát biểu tại buổi làm việc với Tỉnh ủy Phú Yên. Ảnh: Phạm Cường/TTXVN
Phát biểu tại buổi làm việc, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh đánh giá cao Phú Yên đã triển khai quyết liệt, bám sát thực hiện Nghị Quyết 36-NQ/TW đạt được nhiều kết quả. Tỉnh ủy Phú Yên đã ban hành các Nghị Quyết, Chương trình hành động với nhiều nhiệm vụ, giải pháp cụ thể thúc đẩy phát triển kinh tế biển cũng như thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TW.
Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh nhấn mạnh, Phú Yên có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế biển, nổi bật nhất là khai thác, nuôi trồng thủy hải sản, phát triển giao thông vận tải, năng lượng tái tạo.
Tuy nhiên, quy mô kinh tế biển còn hạn chế, chưa phát huy tiềm năng lợi thế của kinh tế biển để phục vụ hiệu quả phát triển kin tế- xã hội cho địa phương. Ban Kinh tế Trung ương chọn Phú Yên là địa phương đầu tiên để giám sát việc thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TWđể cùng nhau thảo luận chỉ ra những mặt làm được, những tồn tại, cùng nhau tháo gỡ khó khăn để Phú Yên khai thác hiệu quả tiềm năng dư địa phát triển kinh tế biển.
“Để kinh tế biển trở thành “hạt nhân”, động lực cho phát triển, Phú Yên cần tạo ra cơ chế chính sách thỏa đáng, điểm tựa để phát triển đặc biệt đối với Khu kinh tế Nam Phú Yên. Ngoài ra, tỉnh cần phát huy vài trò con người là chủ thể phát triển kinh tế biển, thu hút đầu tư thêm nguồn lực hạ tầng giao thông, hạ tầng kinh tế xã hội quan trọng khác, tăng cường liên kết vùng, khai thác phát triển kinh tế biển bền vững gắn với bảo vệ môi trường.
Tỉnh cần nghiên cứu các mô hình kinh tế biển đang phát triển tốt tại các địa phương đã thành công để áp dụng tại Phú Yên. Trưởng Ban Kinh tế Trung ương cũng đề nghị các bộ, ngành liên quan phối hợp hỗ trợ Phú Yên tiếp tục cụ thể hóa, kế hoạch phát triển kinh tế biển, phát triển vùng”. Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh nhấn mạnh.
Báo cáo với đoàn giám sát, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Phú Yên Lê Tấn Hổ cho biết, Phú Yên có đường bờ biển dài 189km với địa hình bờ biển đa đạng, có nhiều vùng, vịnh, đảo và cụm đảo gần bờ. Vùng đặc quyền kinh tế biển của tỉnh có trên 34.000km, sản lượng khai thác thủy sản hàng năm đạt trên 60.000 tấn với nhiều loại thủy, hải sản có giá trị. Ngành kinh tế thuần biển đã đóng góp từ khoảng từ 8-10% GRDP của tỉnh.
Video đang HOT
Đoàn giám sát khảo sát khu vực dự kiến đầu tư tại cảng Bãi Gốc, thị xã Đông Hòa, tỉnh Phú Yên. Ảnh: TTXVN
Đến nay, khu vực ven biển Phú Yên đã hình thành 5 khu công nghiệp tập trung, tổng diện tích hơn 460 ha, đã có hơn 80 dự án đầu tư, tỷ lệ đăng ký đầu tư lấp đầy khoảng 77%. Phú Yên hiện còn nhiều tiềm năng, thế mạnh để đẩy mạnh phát triển dịch vụ, du lịch biển đảo, khai thác, đánh bắt nuôi trồng thủy sản gắn công nghiệp chế biến, phát triển giao thông, cảng biển, năng lượng tái tạo.
Đặc biệt, Khu kinh tế Nam Phú Yên trải dài khoảng 50 km đường bờ biển, quy mô diện tích hơn 21.000 ha, hội tụ đầy đủ các yếu tố, tiềm năng, lợi thế để phát triển thành khu kinh tế trọng điểm, động lực của tỉnh và cũng là một trong tám khu kinh tế ven biển trọng điểm của cả nước.
Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên-Phạm Đại Dương cho biết, triển khai Nghị quyết số 36-NQ/TW, Tỉnh ủy Phú Yên đã ban hành Chương trình hành động số 23-CTr/TU ngày 26/3/2019; chương trình hành động số 10-CTr/TU ngày 18/8/2021 về phát triển kinh tế biển gắn với đẩy mạnh thu hút đầu tư, nhất là Khu kinh tế Nam Phú Yên có vai trò quan trọng gắn kết, kết nối liên vùng với Khu kinh tế Vân Phong.
Tỉnh xác định kinh tế biển là ngành kinh tế chủ lực, do vậy đã có nhiều chương trình xúc tiến, thu hút đầu tư phát triển kinh tế biển, trong đó lấy Khu kinh tế Nam Phú Yên làm động lực đầu tư, phát triển.
Phú Yên cũng đã tập trung đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, phát triển kinh tế biển; tổ chức thực hiện trên 11 nhiệm vụ, dự án về thiết lập bộ cơ sở dữ liệu vùng bờ, biển đảo; tăng cường công tác bảo vệ môi trường, xây dựng tỉnh trở thành điểm đến xanh, sạch, đẹp, thân thiện với môi trường, đẩy mạnh giao thương thúc đẩy phát triển kinh tế biển.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai thực hiện Nghị quyết 36- NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương tại tỉnh Phú Yên còn gặp nhiều khó khăn về nguồn lực, việc chậm thực hiện các thủ tục hành lang pháp lý, quy hoạch; hạn chế nguồn lực đầu cơ sở vật chất hạ tầng, do vậy việc khai thác tiềm năng, lợi thế kinh tế biển ở Phú Yên chưa được phát huy nhiều.
Tại buổi làm việc, các thành viên đoàn giám sát đã phân tích những tồn tại, hạn chế, đồng thời đề xuất các giải pháp giúp Phú Yên khai thác tốt hơn tiềm năng, lợi thế, trong đó các đại biểu nhấn mạnh tỉnh cần tăng cường kêu gọi, huy động nguồn lực nguồn lực đầu tư các nhà máy chế biến thủy sản, nuôi biển, phát triển du lịch, dịch vụ, chống khai thác IUU, giám sát chặt nguồn thải ra biển, bảo vệ môi trường, hoàn thiện xây dựng quy hoạch tỉnh gắn với quy hoạch liên kết vùng phát triển bền vững.
Dịp này, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên và Trung tâm Nhiệt đới Việt – Nga đã ký kết Kế hoạch hợp tác nghiên cứu bảo tồn đa dạng sinh học và bảo vệ các hệ sinh thái tỉnh Phú Yên giai đoạn 2022 – 2024; các đại biểu trong đoàn giám sát triển khai trồng cây xanh tại khu vực Quảng trường Nghinh Phong, thành phố Tuy Hòa.
Trước đó, sáng cùng ngày, Đoàn giám sát đã đi kiểm tra địa điểm dự kiến đầu tư Cảng Bãi Gốc, Khu Công nghiệp Hòa Hiệp, Cảng Vũng Rô.
Đầu tư cao tốc tạo động lực phát triển Đồng bằng sông Cửu Long
Dù đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Đồng bằng sông Cửu Long chưa cao, chưa phát huy tiềm năng và lợi thế tự nhiên; tính kết nối nội vùng, giữa vùng với TP Hồ Chí Minh cũng như Đông Nam bộ còn hạn chế.
Các phương tiện giao thông lưu thông trên cầu Cổ Chiên nối huyện Mỏ Cày Nam (Bến Tre) với huyện Càng Long (Trà Vinh). Ảnh minh họa: Hồng Đạt/TTXVN
Đây là chia sẻ của Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Duy Lâm tại Hội thảo "Xóa trắng cao tốc, phát huy lợi thế Đồng bằng sông Cửu Long", do Báo Thanh Niên tổ chức ngày 31/5 tại TP Hồ Chí Minh.
Theo Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Duy Lâm, một trong những nguyên nhân là hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông còn hạn chế, đặc biệt là hệ thống đường bộ cao tốc, chưa đáp ứng được nhu cầu vận tải với khối lượng lớn, tốc độ nhanh, an toàn. Đến nay, toàn vùng mới hoàn thành khoảng 91 km đường bộ cao tốc trên tổng số 1.239 km của cả nước, chiếm 7%.
Nguyên nhân chủ yếu là nguồn lực đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông cho khu vực tuy đã được quan tâm, bố trí nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu do điều kiện địa hình bị chia cắt, nền địa chất yếu, ảnh hưởng nghiêm trọng bởi biến đổi khí hậu, nước biển dâng nên suất đầu tư xây dựng lớn.
Theo tính toán, suất đầu tư đường bộ cao tốc tại Đồng bằng sông Cửu Long cao hơn 1,3 -1,5 lần so với các khu vực khác, là một phần lý do khiến số lượng công trình được đầu tư chưa được nhiều, khả năng kêu gọi nguồn lực từ xã hội bị hạn chế.
Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Duy Lâm cho biết, theo Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị, đến năm 2030, vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ hoàn thành khoảng 1.180 km đường bộ cao tốc. Hiện Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đang quyết liệt chỉ đạo và Bộ Giao thông Vận tải đang triển khai Kế hoạch đầu tư xây dựng hệ thống đường bộ cao tốc trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Tại hội thảo, ông Nguyễn Ngọc Toàn, Tổng biên tập Báo Thanh Niên cho biết, cụm từ "xóa trắng" được đặt ra nhằm nhấn mạnh đến quyết tâm của Bộ Chính trị, của Chính phủ thể hiện rất rõ trong Nghị quyết 13-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Khu vực này là vùng sản xuất và xuất khẩu lương thực, thực phẩm, thuỷ hải sản và trái cây lớn nhất của cả nước. Thế nhưng, hạ tầng giao thông nói chung và cao tốc nói riêng của khu vực này lại rất khiêm tốn.
Cùng nhìn nhận trên, Chuyên gia kinh tế Trần Du Lịch nhấn mạnh, Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích hơn 40.000 km2, dân số khoảng 19 triệu người cùng rất nhiều tiềm năng nhưng chỉ có thể so sánh với các tỉnh Tây Nguyên, không so sánh nổi với các vùng kinh tế khác trên cả nước. Ba nguyên nhân chủ yếu là hạ tầng giao thông yếu kém, cơ cấu kinh tế thuần nông chuyển dịch chậm và nguồn nhân lực có vấn đề.
Về hạ tầng giao thông, theo ông Trần Du Lịch, Đồng bằng sông Cửu Long có nối kết chiến lược và lâu dài với vùng Đông Nam bộ nhưng trong suốt thời gian dài chỉ dựa vào Quốc lộ 1. Hệ thống giao thông thủy cũng không được khai thác tối đa lợi thế. Đặc biệt, yếu tố quyết định kết nối là đường sắt TP Hồ Chí Minh - Cần Thơ đã được đề xuất từ rất lâu nhưng chưa thể triển khai.
"Hệ thống đường bộ kết nối theo cả trục dọc và trục ngang đã có trong quy hoạch là rất đáng hoan nghênh nhưng chưa đánh giá đúng mức đường sắt. Phải tập trung xây dựng hệ thống cao tốc từ Châu Đốc, Cà Mau, Kiên Giang về Cần Thơ, hình thành hub (trung tâm) kinh tế, sau đó nối kết với TP Hồ Chí Minh bằng hệ thống đường sắt. Đây là con đường chiến lược và vô cùng quan trọng để Đồng bằng sông Cửu Long phát triển", ông Trần Du Lịch phân tích.
Ở góc độ địa phương, Phó Chủ tịch UBND thành phố Cần Thơ Nguyễn Ngọc Hè cho biết, có nhiều lợi thế về gạo và trái cây, vùng nông sản lớn nhưng địa phương chưa phát huy khai thác đúng tiềm năng khiến đời sống người dân còn khó khăn. Một trong những nguyên nhân quan trọng là hệ thống kết cấu hạ tầng chậm phát triển; trong đó có hạ tầng giao thông. Quyết tâm của Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải và các địa phương trong vùng là trong vòng 5 - 10 năm tới sẽ hoàn chỉnh từ trục dọc kết nối TP Hồ Chí Minh với Cà Mau, trục ngang nhằm đảm bảo giao thông thuận lợi giữa vùng duyên hải và vùng biên giới.
Ông Nguyễn Ngọc Hè cho biết, trong giai đoạn 2021 - 2025, việc đầu tư xây dựng hoàn thành các tuyến cao tốc là rất cần thiết và cấp bách để sớm kết nối đồng bộ, từng bước hoàn thiện các trục ngang, trục dọc giao thông theo quy hoạch. Các tuyến này sẽ giúp kết nối giao thông thuận lợi, nhanh chóng từ các tỉnh trong vùng đến các khu chức năng quan trọng trên địa bàn thành phố Cần Thơ đã và đang được quy hoạch như: cảng biển Cần Thơ, Cảng hàng không quốc tế Cần Thơ; trung tâm liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long tại Cần Thơ và các khu công nghiệp lớn.
Đã hoàn thành đầu tư 2 dự án điện lớn tại tỉnh Trà Vinh, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Trung Nam Đỗ Văn Kiên đánh giá, hạ tầng giao thông yếu kém khiến các nhà đầu tư e ngại khi quyết định rót vốn vào các dự án khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Dù có nhiều lợi thế để triển khai các dự án năng lượng nhưng giao thông chính là nút thắt khiến việc thu hút các nhà đầu tư cực kỳ khó khăn.
Theo ông Kiên, nếu có thể hoàn thành các dự án giao thông theo đúng quy hoạch và tiến độ mà Chính phủ cũng như Bộ Giao thông Vận tải đề ra, các doanh nghiệp sẽ có thêm nhiều cơ hội, tiết kiệm nhiều chi phí khi đầu tư các dự án năng lượng, công nghiệp, xuất nhập khẩu... đem lại nhiều nguồn lực đến với các tỉnh miền Tây.
Tập trung nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái vừa ký Nghị quyết số 68/NQ-CP về tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động và huy động nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty trong phát triển kinh tế - xã hội. Công ty cổ phần Chế tạo máy - Vinacomin (Tập...