Dự phòng rủi ro của ngân hàng sẽ tăng trong quý IV?
Tuy các ngân hàng công bố lợi nhuận tích cực trong 3 quý đầu năm, song nợ xấu của nhiều ngân hàng cũng có xu hướng tăng, kéo theo dự phòng rủi ro nợ xấu lớn hơn.
Theo Bộ phận Phân tích CTCP Chứng khoán Quốc tế Việt Nam (VISercurities), nếu như lợi nhuận quý I của ngành ngân hàng tăng vọt đến 57% so với cùng kỳ thì từ quý II đã chậm lại.
Tổng lợi nhuận quý III của các ngân hàng thấp hơn quý II do có nhiều đơn vị tăng trích lập dự phòng nợ xấu. Lũy kế 9 tháng, lợi nhuận của 18 ngân hàng niêm yết (tính thêm OCB sắp niêm yết) đạt 51.345 tỷ đồng, tăng 40,5% so với cùng kỳ và đóng góp 25% toàn thị trường.
Báo cáo của VISercurities cũng chỉ ra rằng, nợ xấu của nhiều ngân hàng đang tăng trở lại. Nợ xấu tính đến cuối quý III/2018 của các ngân hàng niêm yết tăng thêm gần 15.000 tỷ đồng so với đầu năm. Vì vậy, các ngân hàng gia tăng trích lập dự phòng cho vay đến hơn 20.000 tỷ đồng, tương ứng tăng tỷ lệ trích lập đến 42%.
Thực tế, chỉ có một vài ngân hàng có nợ xấu sụt giảm, tính đến hết quý III/2018 là Sacombank, Eximbank, ABBank và NamABank.
VAMC đặt mục tiêu xử lý tối thiểu 140.000 tỷ đồng nợ xấu đã mua vào năm 2022; kế hoạch năm 2018 là xử lý 34.504 tỷ đồng dư nợ gốc; đã thu hồi 30.641 tỷ đồng trong năm 2017; đã bán 865 khoản nợ với giá 6.472 tỷ đồng và 4.865 tỷ đồng tài sản đảm bảo…
Trong đó, Sacombank giảm hơn 2.300 tỷ đồng nợ xấu so với đầu năm, xuống còn hơn 8.000 tỷ đồng, tương đương mức giảm 22%. Theo đó, từ ngân hàng có lượng nợ xấu lớn thứ 2 hệ thống, Sacombank đã chuyển xuống vị trí thứ 4.
Tỷ lệ nợ xấu tại thời điểm cuối tháng 9 là 3,18% trên tổng dư nợ, giảm so với mức 3,7% cuối quý III và 4,67% hồi đầu năm. Nợ xấu riêng ngân hàng mẹ Sacombank tính đến cuối tháng 9 chỉ còn 2,98%. Tuy nhiên, dự phòng rủi ro của Sacombank vẫn tăng hơn 5 lần trong 3 quý đầu năm lên mức 1.178 tỷ đồng, chiếm 47% lợi nhuận thuần của Ngân hàng.
Cuối tháng 9/2018, nợ xấu tại OCB là 1.429 tỷ đồng, tăng mạnh so với con số 864 tỷ đồng hồi đầu năm. Theo đó, tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ cho vay khách hàng tăng từ 1,79% cuối năm 2017 lên 2,66% cuối tháng 9/2018.
Nguyên nhân được OCB cho biết là Ngân hàng mua lại nợ xấu từ VAMC và đang quá trình nỗ lực xử lý, tất toán trái phiếu VAMC. Hiện OCB chỉ còn nắm giữ 242 tỷ đồng trái phiếu của VAMC, giảm 67% so với thời điểm đầu năm. Chi phí hoạt động trong 9 tháng đầu năm của OCB tăng 43% lên 1.342 tỷ đồng; chi phí dự phòng tăng gấp rưỡi lên 548 tỷ đồng.
Video đang HOT
Các nhà băng lớn như BIDV, Vietinbank, VPBank có nợ xấu tăng khá mạnh trong 9 tháng đầu năm. Cụ thể, nợ xấu của BIDV tăng gần 3.000 tỷ đồng, lên 17.042 tỷ đồng; Vietinbank tăng hơn 3.100 tỷ đồng lên 12.127 tỷ đồng; VPBank tăng hơn 3.200 tỷ đồng lên 9.401 tỷ đồng.
Nợ xấu tăng đã khiến cho cả ba ngân hàng trên phải trích lập dự phòng rủi ro nhiều hơn. BIDV đã phải trích lập dự phòng tới hơn 14.300 tỷ đồng, khiến lợi nhuận 9 tháng chỉ còn hơn 7.200 tỷ đồng. Chi phí dự phòng rủi ro trong quý III của VPBank tăng tới 69% so với cùng kỳ, lên tới 2.748 tỷ đồng…
Không thể phủ nhận sau hơn một năm triển khai Nghị quyết 42 của Quốc hội về xử lý nợ xấu, công cuộc xử lý nợ xấu, bán đấu giá tài sản lớn tồn đọng nhiều năm đã có những bước tiến lớn. Tuy nhiên, các chuyên gia tài chính cho rằng, công tác xử lý nợ xấu vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn. Nợ xấu được rao bán, thậm chí giảm giá mạnh vẫn khó phát mãi tài sản.
Thực tế cho thấy, VAMC và nhiều ngân hàng đang ráo riết bắt tay xử lý nợ, thanh lý tài sản bảo đảm, trong đó nhiều khoản nợ lớn được hạ giá hàng trăm tỷ đồng vẫn khó bán.
Mới đây, VAMC thông báo đấu giá lần thứ 6 khoản nợ của Công ty Thuận Thảo Nam Sài Gòn và 95 khách hàng cá nhân với tổng dư nợ là 2.378 tỷ đồng tại BIDV Phú Tài. Giá khởi điểm chỉ còn 843,7 tỷ đồng, giảm 140 tỷ đồng so với trước đó và so với mức giá cao nhất đã giảm 364 tỷ đồng…
Một chuyên gia tài chính còn đưa ra nhận định, về cuối năm và nhất là sang năm 2019, khi nợ xấu từ các khoản cho vay bất động sản tăng sẽ kéo theo dự phòng rủi ro, ảnh hưởng lợi nhuận của ngành. Đó cũng chính là một trong những lý do để NHNN kiên định nâng hệ số rủi ro cho vay bất động sản được từ 150% lên 200% đầu năm 2018 và sang đầu năm 2019 tỷ lệ này được nâng lên 250%.
Lượng nợ xấu từng được “đẩy sang” VAMC nay lần lượt trở về vào đúng giai đoạn ngân hàng thương mại đạt lợi nhuận cao, nên phải tăng trích dự phòng.
Còn nhớ tháng 10/2013, lần đầu tiên trong lịch sử hoạt động ngân hàng Việt Nam, một đầu mối xử lý nợ xấu đặc thù ra đời – VAMC, mua lại nợ xấu các tổ chức tín dụng, nhưng không trả bằng tiền mặt, mà bằng trái phiếu đặc biệt với kỳ hạn 5 năm.
Tính từ tháng 10/2013 đến 31/12/2017, VAMC đã mua tổng dư nợ gốc nội bảng trên 307.930 tỷ đồng, giá mua nợ là 277.755 tỷ đồng. Từ năm 2018, công ty này đã hạn chế mua thêm, chuyển dần sang mua theo giá thị trường…
Đồng thời, VAMC đặt mục tiêu xử lý tối thiểu 140.000 tỷ đồng nợ xấu đã mua vào năm 2022; kế hoạch năm 2018 là xử lý 34.504 tỷ đồng dư nợ gốc; đã thu hồi 30.641 tỷ đồng trong năm 2017; đã bán 865 khoản nợ với giá 6.472 tỷ đồng và 4.865 tỷ đồng tài sản đảm bảo…
Vân Linh
Theo Tinnhanhchungkhoan.vn
Chạy đua phát hành trái phiếu: Ngân hàng đẩy áp lực cho tương lai
Khan vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn, đang khiến các NH dồn dập phát hành trái phiếu. Huy động vốn bằng cách này giúp NH phần nào giảm được áp lực trước mắt, song lại phải đối phó với rủi ro trong tương lai.
BIDV vừa công bố phát hành 400.000 trái phiếu ra công chúng để tăng vốn hoạt động.
Ngân hàng càng to, nỗi lo càng lớn
Đầu tuần này, BIDV đã công bố phát hành 400.000 trái phiếu ra công chúng với mong muốn thu về 4.000 tỷ đồng để tăng vốn hoạt động. Không chỉ BIDV, mà một loạt ngân hàng khác, như Vietcombank, VietinBank, MB, VIB... cũng đã huy động hàng ngàn tỷ đồng qua kênh trái phiếu.
Chỉ tính trong quý IV/2018, các ngân hàng đã và sẽ huy động khoảng 10.000 tỷ đồng qua kênh trái phiếu. Cụ thể, Vietcombank đã huy động hơn 550 tỷ đồng trong 6 đợt huy động, VietinBank phát hành 550 tỷ đồng trái phiếu, MB cũng phát hành thành công 1.387,9 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 5 năm và 10 năm, HDBank sắp phát hành 500 tỷ đồng trái phiếu, ACB dự kiến phát hành 2.200 tỷ đồng trái phiếu...
Theo TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế, sở dĩ các ngân hàng cấp tập phát hành trái phiếu để huy động vốn là nhằm đáp ứng nhu cầu vốn tăng cao cuối năm. Bên cạnh đó, đây cũng là một giải pháp giúp các ngân hàng tăng vốn cấp 2, qua đó đáp ứng những tiêu chuẩn mới về quản trị rủi ro.
Nếu nhìn vào lượng tiền gửi và cho vay của các ngân hàng 9 tháng đầu năm, dễ hiểu tại sao ngân hàng lại cấp tập huy động vốn qua kênh trái phiếu.
Đơn cử, tại BIDV, kết thúc quý III/2018, cho vay khách hàng đạt tới 968.752 tỷ đồng, trong khi tiền gửi là 953.513 tỷ đồng. Tương tự, tại VietinBank, huy động vốn đạt 826.000 tỷ đồng, tăng 9,7%, trong khi cho vay đạt 892.000 tỷ đồng, tăng 12,8%. Thiếu tiền gửi khiến VietinBank trở thành một trong 3 ngân hàng đứng đầu về phát hành trái phiếu và chứng chỉ tiền gửi dài hạn.
Tuy không rơi vào cảnh hụt vốn như VietinBank và BIDV, song Vietcombank cũng đang phải đối mặt với nhiều rủi ro khi dư nợ cho vay khách hàng tăng 15,5%, nhưng huy động vốn chỉ tăng hơn 9%.
Nhu cầu tín dụng tăng mạnh trong quý IV khiến nhiều nhà băng đang trong tình trạng đau đầu cân đối thanh khoản. Bên cạnh đó, chỉ còn hơn 1 tháng nữa (từ ngày 1/1/2019), tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn sẽ giảm từ 45% hiện nay xuống 40%. Điều này buộc các ngân hàng phải tăng tốc tìm nguồn vốn huy động, nếu không muốn bị hãm tín dụng. Trong bối cảnh tiền gửi tăng chậm, trái phiếu là con đường khả thi nhất.
Ngoài ra, áp lực tăng vốn cấp hai đang đè nặng cũng là nguyên nhân khiến các ngân hàng dồn dập phát hành trái phiếu. Hiện vốn tự có của nhiều ngân hàng rất thấp, tăng chậm, trong khi tín dụng tăng nhanh thời gian qua. Thống kê của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, hệ số an toàn vốn (CAR) của các ngân hàng TMCP quốc doanh đang chạm ngưỡng tối thiểu (chỉ hơn 9%), trong khi vốn tự có lại tăng trưởng âm.
"Tăng vốn, cải thiện hệ số CAR đang là rủi ro lớn nhất của nhiều ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng TMCP quốc doanh", TS. Võ Trí Thành, chuyên gia kinh tế nhận định.
Theo đánh giá của các chuyên gia ngân hàng, trước mắt, việc phát hành trái phiếu sẽ giúp các ngân hàng thoát hiểm khi nhiều thời hạn đã cận kề. Song về lâu dài, giải pháp này sẽ gây ra nhiều hệ lụy.
Rủi ro chực chờ
Rủi ro lớn nhất mà làn sóng phát hành trái phiếu mang lại cho nền kinh tế là lãi suất có thể dâng cao. TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế cho rằng, các ngân hàng phát hành trái phiếu chỉ khiến mặt bằng lãi suất "nhích lên một chút". Tuy nhiên, thực tế cho thấy, lãi suất trên thị trường đã tăng mạnh ở nhiều kỳ hạn, nhiều ngân hàng, chứ không phải diễn ra cục bộ.
"Trước mắt, lãi suất tăng chưa gây hậu quả cho doanh nghiệp, song đây sẽ là áp lực lớn cho năm 2019", TS. Võ Trí Thành nhận định.
Đối với ngân hàng, việc phát hành trái phiếu để huy động vốn cũng có thể khiến lợi nhuận bị ảnh hưởng, vì lãi suất đầu vào tăng, song lãi suất đầu ra không thể tăng tương ứng.
Chưa kể, việc một số ngân hàng dự định phát hành trái phiếu để gọi vốn ở thị trường nước ngoài sẽ khiến gánh nặng nợ công tăng lên.
TS. Nguyễn Trí Hiếu cho rằng, nếu ngân hàng phát hành lượng lớn trái phiếu, đến thời điểm đáo hạn, áp lực trả lãi và gốc sẽ rất lớn. Khi đó, không loại trừ khả năng các ngân hàng lại phải đẩy lãi suất lên một đợt nữa để có vốn trả cho trái chủ. Vòng luẩn quẩn này khó chấm dứt nếu ngân hàng không có kế hoạch sử dụng vốn và đáo hạn đầy đủ.
Để giải quyết cơn khát vốn của các ngân hàng hiện nay, đặc biệt là các ngân hàng TMCP quốc doanh, theo TS. Võ Trí Thành, cách cấp bách nhất là Chính phủ cần cho phép các nhà băng này giữ lại một phần lợi nhuận để tăng vốn. Bên cạnh đó, cần tháo gỡ để các ngân hàng đẩy nhanh các thương vụ bán vốn, nhằm huy động được một nguồn lớn bên vững mới, điển hình như thương vụ BIDV bán 15% vốn cho KEB Hana hay Vietcombank bán 10% vốn cho đối tác nước ngoài.
Về lâu dài, các ngân hàng phải đẩy nhanh hơn nữa cơ cấu hoạt động theo hướng giảm thu từ tín dụng, tăng thu từ dịch vụ. Giảm cho vay các lĩnh vực có trọng số rủi ro cao như bất động sản, đồng thời tập trung cho vay sản xuất. Việc chuyển hướng này không chỉ giúp ngân hàng giảm áp lực vốn trung, dài hạn, mà còn giúp giảm áp lực lên hệ số CAR của các nhà băng.
Theo báo Đầu tư
Nợ xấu ngân hàng tăng cao: Gánh nặng với nền kinh tế là rất lớn! Theo các chuyên gia, nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam không phải là vấn đề mới phát sinh mà thực chất là kết quả được tích tụ từ nhiều năm trước. Và gánh nặng nợ xấu của ngân hàng với nền kinh tế là rất lớn, nó có tác động trực tiếp đến an ninh tài chính quốc gia....