Du lịch Thập Tam Lăng Trung Quốc
Trung Quốc nổi tiếng với những điểm du lịch nổi tiếng, những lễ hội độc đáo. Không những thế Trung Quốc còn được biết đến với những ẩm thực hấp dẫn.
Tuy nhiên khi nói đến Trung Quốc chúng ta có thể biết đến như: Vạn Lý Trường Thành, Thượng Hải, Hàng Châu, Ô Trấn, Bắc Kinh, Vạn Lý Trường Thành,Tử Cấm Thành, Di Hòa Viên…Tuy nhiên điểm đến không thể bỏ qua phải nói đến Thập Tam Lăng.
Thập Tam Lăng có diện tích rộng hơn 40km2, tọa lạc nằm ngay chân núi Thiên, cách Thủ đô Bắc Kinh 50 km về phía Tây Bắc. Đây là nơi yên nghỉ cuối cùng của 13 vị hoàng đế, 23 vị hoàng hậu và một số phi tần khác triều nhà Minh.
Theo quan niệm dân gian của người dân nơi đây, để hóa giải được ma quỷ và phong tà từ phương Bắc xuống nên đã chọn khu vực hình vòng cung ở chân núi Thiên Thọ để xây lăng. Một vị trí lý tưởng, được núi bao bọc 4 bề, phong cảnh hữu tình, đồng thời có ý nghĩa trong vấn đề quân sự bởi có núi như bức bình phong bảo vệ mọi giông tố, bão táp.
Thập Tam Lăng được xây dựng qua nhiều triều đại, từ thời nhà Minh Thành Tổ Chu Đệ cho tới khi nhà Minh sụp đổ. Thập Tam Lăng được Chu Đệ tọa lạc trên một vị thế gò núi, bốn bề là cây cối sum suê, tươi mát, các lăng mộ nằm theo hướng Bắc Nam, được nối với nhau bằng một con đường mang tên Thần Lộ dài chừng một dặm (1,7 cây số), nằm giữa hai rặng núi Hổ Sơn và Long Sơn.
Theo nhiều sử cũ, còn có 23 hoàng hậu, 1 quý phi và 10 hoàng phi được an táng tại đó, trong đó có nhiều người bị tuẫn táng (chôn sống) theo phong tục của các hoàng đế đầu thời nhà Minh. Trong suốt giai đoạn nhà Minh cai trị, dân thường không được phép đặt chân đến quần thể lăng mộ này. Vào năm 1644, quân nổi dậy do Lý Tự Thành lãnh đạo đã đến cướp phá và thiêu rụi nhiều lăng mộ ở đây trước khi tiến vào Bắc Kinh.
Hiện nay quần thể này mở cửa cho du khách đến tham quan. Mọi du khách đến đây đều phải ngạc nhiên. Vì nhiều điều liên quan đến khu lăng mộ này đến nay vẫn còn nhiều ẩn số và thách thức cần được khai thác để khám phá.
Đến với du lịch Trung Quốc bạn hãy ghé thăm bên trong khu Thập Tam Lăng, bạn phải bước qua một chiếc cổng cao khoảng 14m. Mặc dù công trình bao gồm nhiều lăng mộ nhưng bạn chỉ có được tham quan 2 công trình chính, đó là Trường Lăng và Định Lăng vì lý do bảo tồn và công tác khai quật, phục vụ nghiên cứu.
Trường Lăng được xây dựng theo lối Cố Cung, nơi chôn cất thi thể vua Chu Đệ, là ngôi mộ lớn nhất của cụm công trình Thập Tam Lăng. Với hai gam màu rực rỡ của bức tường màu đỏ cùng tạo nên một sự nguy nga lộng lẫy.
Định Lăng – nơi an nghỉ vua Chu Dực Quân được thiết kế khang trang, là nơi an nghỉ của vua Chu Dực Quân và hai vị hoàng hậu của ông. Các nhà khảo cổ đã may mắn trong quá trình khai quật và tìm được một tấm bia đá, trên đó có ghi chi tiết về cách thức để mở cửa Định Lăng. Vào trong Định Lăng, bạn sẽ được thấy ba áo quan nơi đặt thi hài của vua và hoàng hậu cùng với 26 chiếc rương chứa những món đồ trang sức quý như: Đồ thêu, trang phục và đồ trang sức, ngoài ra còn có khá nhiều đồ vàng, ngọc và đồ sứ rất quý hiếm.
Hiện Thập Tam Lăng đã được UNESCO đưa vào danh mục di sản thế giới. Nơi đây với cảnh quan thiên nhiên, núi non cây cỏ tươi mát… Cho đến tận ngày nay, Thập Tam Lăng vẫn còn được gìn giữ gần như nguyên vẹn.
Vậy có thể nói đến đây bạn không chỉ tham quan, mà còn là cơ hội để tìm hiểu về bề dày lịch sử Trung Quốc, trải qua biết bao đời vua chúa. Đối với bất kì du khách nào có niềm đam mê khám phá về lịch sử Trung Hoa thì đây là điểm đến dành riêng cho bạn.
Video đang HOT
Chu Đệ và cuộc dời đô đẫm máu nhất trong lịch sử Trung Quốc
Chu Đệ chịu ảnh hưởng nhiều từ tính cách hung tàn cũng như các lý luận của phụ vương Chu Nguyên Chương.
Ông cũng là một vị vua máu lạnh khét tiếng trong lịch sử Trung Quốc.
Thập Tam Lăng (13 lăng mộ của nhà Minh) tọa lạc tại phía Nam chân núi Thiên Thọ, huyện Xương Bình, cách thủ đô Bắc Kinh 100km về phía Bắc.
Diện tích khu lăng mộ rộng hơn 120km2, là nơi yên nghỉ của 13 vị hoàng đế nhà Minh. Đây cũng là một trong những di chỉ lăng mộ Hoàng đế được bảo tồn tương đối hoàn chỉnh của Trung Quốc.
Trong Thập Tam Lăng, Trường Lăng là lăng chính, thờ Minh Thành Tổ Chu Đệ.
Trường Lăng là lăng chính, thờ Minh Thành Tổ Chu Đệ.
Mặc dù đây là vị Hoàng đế có tiếng trong lịch sử triều Minh, song ông không lên ngôi báu theo chế độ "cha truyền con nối", không dùng biện pháp hòa bình mà là dùng vũ lực để cướp ngôi, thống trị thiên hạ.
Theo sử sách Trung Quốc, Chu Tiêu - Thái tử của Hoàng đế khai lập ra triều Minh Chu Nguyên Chương qua đời khi còn rất trẻ. Trong hoàn cảnh đó, Hoàng thái tôn Chu Kiến Văn trở thành người kế thừa ngai vàng.
Sau khi Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương qua đời, Hoàng thái tôn kế thừa ngôi báu. Đó chính là Kiến Văn Hoàng đế.
Tuy nhiên, những ngày giữ ngang vàng, điều hành đất nước của Kiến Văn Hoàng đế kéo dài không được bao lâu.
Chú thứ 4 của ông là Yên Vương Chu Đệ trấn thủ Bắc Bình (nay là Bắc Kinh), xưng danh "Thanh quân trắc" (có nghĩa là thanh trừ kẻ xấu thân cận bên cạnh quân vương), khởi binh lật đổ nhà vua.
Trong khi việc Hoàng đế bị lật đổ còn chưa rõ ràng, Chu Đệ lấy danh nghĩa người chiến thắng, soán ngôi Hoàng đế, sau đổi niên hiệu thành Vĩnh Lạc Hoàng đế, trứ danh trong lịch sử Minh triều.
Thanh trừng trung thần cựu triều, di dời cố đô ngập trong biển máu
Là chư hầu một phương, việc Yên Vương khởi binh phản đối chính quyền trung ương là một hành động đại nghịch bất đạo.
Những quan viên Minh triều trung thành với Kiến Văn Hoàng đế - người được lập nên theo cách chính thống, hợp với luật lệ triều đình, không ngừng phản kháng quân đội của Yên Vương, đáng được coi là những trung thần.
Tuy nhiên, khi Kiến Văn Hoàng đế bị soán ngôi, Yên Vương đã lãnh đạo các anh em huynh đệ của mình khống chế thế cục. Bản thân ông trong chốc lát đã trở thành Vĩnh Lạc Hoàng đế, tình thế theo đó cũng nhanh chóng đổi thay.
Dù Minh triều vẫn là Minh triều, nhưng trên thực tế, Minh triều đã trở thành triều đại của Yên Vương chứ không còn là của Kiến Văn Đế.
Những trung thần lâu nay luôn ủng hộ Văn Đế, lẽ tự nhiên gặp đại họa, bỗng chốc biến thành những kẻ phản Minh.
Theo nguyên tắc của Huyết thống luận: "Lão tử anh hùng nhi hảo hán, Lão tử phản động nhi hỗn đản", những người tham gia vào các hoạt động phản đối Vĩnh Lạc Hoàng đế đều bị trừng phạt bằng những nhục hình dã man như lột da, thả vào vạc dầu, nấu trong nước sôi...
Tiếng than khóc, kêu gào thảm thiết, ai oán khắp thành Nam Kinh
Không những vậy, vợ, em gái, em dâu, cháu ngoại ..., tất cả những phụ nữ có liên quan đến các bậc trung thần nói trên đều bị Chu Đệ đưa đến các lầu xanh làm kỹ nữ. Ngay cả những người đã xấp xỉ lục tuần cũng không ngoại lệ.
Thảm cảnh này xảy ra khắp Nam Kinh, thậm chí còn lan đến tận Bắc Kinh.
Sau khi Chu Đệ xưng đế, Nam Kinh chìm trong biển máu.
Từ quảng trường cố cung thời Minh cho đến Vũ Đài Hoa ở huyện Phụ Quách, không nơi nào máu không vương vãi. Những hình ảnh này đập thẳng vào mắt tân Hoàng đế, khiến tâm thế ông luôn trong trạng thái bất an.
Vĩnh Lạc Hoàng đế trước tình thế đó đã phải tính đến chuyện dời đô đến một nơi khác, mà ở đó ông không còn phải chứng kiến những cảnh tượng ám ảnh tâm trí mỗi ngày.
Ngoài ra, còn một nguyên nhân quan trọng nữa khiến vị Hoàng đế thứ 3 của Minh triều tính đến chuyện dời đô.
Chu Đệ từng trấn thủ Bắc Bình nhiều năm, hơn ai hết, ông biết nơi này có một vị trí quan trọng như thế nào về mặt quân sự. Trước khi bị Chu Nguyên Chương lật đổ, nhà Nguyên đóng đô tại Đại Đô (nay là Bắc Kinh).
Thất thế, quân Nguyên dồn về thảo nguyên Mông Cổ, nhưng vẫn không ngừng mở các đợt tấn công hòng tái chiếm lại các mảnh đất do Minh triều cai quản.
Do đó, việc dời đô về phía Bắc nằm trong toan tính của Chu Đệ, nhằm trấn áp các cuộc nổi dậy của những người ủng hộ Nguyên triều.
Một công đôi việc, đó là lý do Vĩnh Lạc Hoàng đế quyết định dời đô từ Nam Kinh đến Bắc Kinh.
Năm Vĩnh Lạc thứ 4 (năm 1406), bá quan văn võ tại Bắc Bình phụng chỉ Hoàng đế, điều động hàng trăm vạn người, chính thức xây dựng cung điện Bắc Kinh.
Những di sản văn hóa thế giới của Trung Quốc như Cố Cung, Thiên Đàn, Đại Miếu và nhiều công trình kiến trúc có quy mô hoành tráng khác mà chúng ta thấy ngày nay, chính là những công trình được dựng lên sau khi Vĩnh Lạc Hoàng đế dời đô đến Bắc Kinh. Chủ trì xây dựng công trình gồm Luy Thiên Đô Đốc Thiêm Sự Phong Thái Ninh Hầu Trần Khuê (mất năm 1419, khi công trình còn dở dang), Công bộ thị lang Ngô Trung, Hình bộ thị lang Trương Tư Cung, kiến trúc sư Thái Tín và trong đó có một thái giám người Việt tên Nguyễn An làm Tổng đốc công.
Như vậy, dù Bắc Kinh đã từng được Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt chọn làm kinh đô (Đại Đô), nhưng quãng thời gian này chỉ kéo dài 97 năm (1271 - 1368), sau khi Nguyên triều bị Chu Nguyên Chương lật đổ.
Chỉ từ sau khi Vĩnh Lạc Hoàng đế quyết định dời đô đến Bắc Kinh, địa danh này qua nhiều thời kỳ vẫn liên tục được duy trì làm kinh đô (trừ thời kì Dân Quốc đóng đô ở Nam Kinh) và cũng là thủ đô của Trung Quốc ngày nay.
Chùa Phật Ngọc Thượng Hải - Trung Quốc Trung Quốc điểm đến mơ ước của biết bao du khách, nơi không chỉ có những danh lam thắng cản luôn làm say đắm lòng người, mà đến đây du khách còn bắt gặp những ngôi chùa linh thiêng. Trong đó phải kể đến ngôi chùa Phật Ngọc Thượng Hải tọa lạc ngay trên đường Giang Ninh. Đến đây bạn sẽ bắt gặp...