Dự báo sớm tình hình tín dụng 6 tháng cuối năm
Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính đến hết tháng 6/2020, tăng trưởng tín dụng toàn ngành ở mức 3,26%, bằng nửa năm ngoái và còn rất xa mục tiêu 14% cả năm.
3,26% là con số dễ hiểu bởi dịch Covid-19 và phù hợp với mức tăng trưởng GDP 6 tháng chỉ đạt 1,81% của Việt Nam. Nhưng nếu so sánh với cùng kỳ thì đây rõ ràng là con số rất thấp, 6 tháng đầu năm 2019, tốc độ tăng trưởng tín dụng là 7,36% và 6 tháng năm 2018 là 7,82%. Vì thế, mức tăng trưởng tín dụng 6 tháng cuối năm 2020 thế nào sẽ là câu hỏi cần dự báo sớm.
Ông Nguyễn Quốc Hùng, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN) cho biết, trong điều hành tín dụng, bám sát diễn biến dịch Covid-19, NHNN kiểm soát quy mô tín dụng phù hợp với chỉ tiêu định hướng, đảm bảo chất lượng tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận vốn tín dụng, khôi phục nhanh chóng sản xuất – kinh doanh.
Số liệu chi tiết tính tới 19/6/2020, tín dụng lĩnh vực nông nghiệp – nông thôn tăng 0,35%; sản xuất – xuất khẩu tăng 4,94%; công nghệ cao tăng 2,92%; công nghiệp hỗ trợ tăng 2,27%; cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa giảm 0,7%. Mặc dù, dịch bệnh đã được khống chế tại Việt Nam từ đầu tháng 5 và các hoạt động kinh tế – xã hội dần được khôi phục, nhưng trong bối cảnh thương mại toàn cầu suy giảm, nhu cầu tiêu dùng của người dân chưa thực sự hồi phục và hoạt động của doanh nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn khiến nhu cầu tín dụng ở mức thấp, dù lãi suất cho vay giảm.
“Bên cạnh đó, rủi ro nợ xấu tăng lên khiến các tổ chức tín dụng (TCTD) dù tích cực thực hiện chủ trương của NHNN về hỗ trợ doanh nghiệp (miễn giảm lãi suất, giữ nguyên nhóm nợ, gia hạn, tái cơ cấu nợ…), nhưng vẫn thận trọng (không hạ chuẩn) trong việc xét duyệt các khoản vay mới”, TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV nhận định.
Điểm đáng chú ý, tính đến 19/6/2020, tổng phương tiện thanh toán tăng 4,59% và huy động vốn của các TCTD tăng 4,35% (thấp hơn so với cùng kỳ năm 2019 lần lượt là 6,05% và 6,09%). Đây là sự cải thiện rõ rệt so với 4 tháng đầu năm 2020 khi tổng huy động vốn chỉ tăng 0,07% so với cùng kỳ 2019. Tăng trưởng huy động vốn cao hơn tăng trưởng tín dụng trong nửa đầu năm 2020 một mặt cho thấy thanh khoản của hệ thống được cải thiện, nhưng mặt khác thể hiện sự khó khăn của các TCTD trong việc thúc đẩy tăng trưởng tín dụng.
Trong cuộc trao đổi với Báo Đầu tư Chứng khoán, các chuyên gia kinh tế nhận định, sức hấp thụ vốn của nền kinh tế còn yếu cho thấy dịch Covid-19 ảnh hưởng nhiều đến niềm tin của khu vực kinh tế tư nhân. Do đó, đầu tư công càng cần phải được đẩy mạnh để hỗ trợ cho tăng trưởng GDP.
Bà Yun Liu, chuyên gia kinh tế về thị trường ASEAN, Khối Nghiên cứu kinh tế toàn cầu Ngân hàng HSBC nêu quan điểm, mặc dù Việt Nam đã chứng kiến sự tăng trưởng quý so với cùng kỳ yếu nhất trong lịch sử, nhưng trong quý II vẫn ghi nhận mức tăng trưởng tích cực, gây ngạc nhiên cho thị trường với mức tăng trưởng dương.
“Nhìn chung, Việt Nam đang có dấu hiệu phục hồi nhanh hơn chúng ta dự đoán trước đây nhờ vào thành công trong việc ngăn chặn sự bùng phát dịch Covid-19 sau khi mở lại nền kinh tế”, bà Yun Liu chia sẻ.
Video đang HOT
Theo đó, HSBC nâng dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2020 lên 3% từ mức 1,6% dự báo trước đó và giảm mức dự báo tăng trưởng năm 2021 từ mức 9,1% xuống 8,5%.
Ngoài ra, HSBC nâng dự báo lạm phát của Việt Nam trong năm 2020 từ mức 2,7% lên mức 3,3% do giá thực phẩm dự báo tiếp tục tăng. Với sự phục hồi tăng trưởng nhanh hơn dự kiến và lạm phát được kiểm soát tương đối trong năm nay, HSBC không kỳ vọng NHNN sẽ cắt giảm 50 điểm cơ bản của lãi suất trong quý III. Mức lãi suất tái cấp vốn của NHNN sẽ được giữ nguyên ở mức 4,5%/năm trong suốt năm 2020.
Một nghiên cứu của Công ty Chứng khoán Bảo Việt phân tích, trong các tháng cuối năm, tín dụng được dự báo sẽ tăng nhanh hơn 6 tháng đầu năm nhưng mức độ tăng sẽ chỉ ở mức vừa phải. Tăng trưởng tín dụng cho cả năm được dự báo ở quanh mức 10%.
Tương đồng về quan điểm, TS. Lực nhận định: “Nhu cầu tín dụng dù có khả năng phục hồi, song mức tăng trưởng tín dụng cả năm sẽ không quá lớn, dự kiến từ 9-10%”.
Bà Yun Liu nói: “Chúng tôi tin rằng vẫn còn có những lý do để thận trọng. Từ phía khách quan, nguy cơ xảy ra làn sóng nhiễm Covid-19 thứ hai có thể hạn chế triển vọng xuất khẩu của Việt Nam. Từ trong nước, thị trường lao động suy thoái đã đặt ra câu hỏi về việc phục hồi nhu cầu nội địa có thể được duy trì trong bao lâu”.
Kỳ vọng gì về kinh tế, tỷ giá và lạm phát năm 2020?
Kinh tế năm sau nhiều khả năng sẽ đứng trước nhiều khó khăn hơn, dẫn đến vấn đề định hướng hướng đi cho tỷ giá cũng đứng trước nhiều thách thức...
ảnh minh họa
Ông Ngô Đăng Khoa - Giám đốc Toàn quốc Khối kinh doanhh tiền tệ và thị trường vốn Ngân hàng HSBC Việt Nam vừa đưa ra một số nhận định về tình hình kinh tế Việt Nam, chính sách tiền tệ, áp lực lạm phát năm 2019 và những kỳ vọng trong năm 2020.
Kinh tế Việt Nam năm 2019 "tương đối thành công"
Theo ông Ngô Đăng Khoa, Việt Nam đã có một năm 2019 tương đối thành công về mặt kinh tế khi duy trì được tăng trưởng bền vững trong bối cảnh suy giảm thương mại toàn cầu và các rủi ro vĩ mô nảy sinh và gia tăng trong suốt năm. Không như nhiều nền kinh tế châu Á khác vốn đang gặp nhiều thách thức để duy trì tăng trưởng và vượt qua rủi ro, Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng ấn tượng 7% trong quý III.2019, quan trọng hơn, tăng trưởng được duy trì chủ yếu do khu vực sản xuất và bán lẻ.
Ngành sản xuất tăng trưởng mạnh là đầu tàu kéo thương mại phát triển. Cụ thể, 11 tháng đầu năm 2019 chứng kiến mức thăng dư thương mại kỷ lục với mức xuất siêu 11 tháng năm 2019 lên đến 9,1 tỷ USD, đặc biệt nhờ vào đóng góp từ lĩnh vực điện thoại và linh kiện. Xuất khẩu của Việt Nam, mặc dù giảm nhẹ so với năm trước, vẫn đạt khoảng 8% so với cùng kỳ, tính tới thời điểm tháng 11 năm nay, trong bối cảnh chiến tranh thương mại đang tạo ra những bất ổn trong kinh tế thế giới. Đây là mức tăng trưởng khá ấn tượng so với các nước khác trong khu vực.
Bên cạnh đó, bán lẻ được kỳ vọng vượt qua mức của năm 2018, tăng 12,6% so với cùng kỳ tính tới tháng 11. Cụ thể, vận tải, đồ uống và thực phẩm, quần áo đều đang phát triển mạnh mẽ. Chúng tôi kỳ vọng mức tăng trưởng sẽ được duy trì một cách bền vững trong điều kiện vốn FDI đang và sẽ tiếp tục đổ vào nền kinh tế.
Về FDI, chúng ta đã thấy dòng vốn chuyển hướng qua Việt Nam, củng cố vị thế ngành sản xuất. Trong ba quý đầu năm, dòng vốn đăng ký mới đã đổ vào ngành sản xuất, cụ thể là điện tử. Trong khi đó, vốn thực hiện cao nhất trong nhiều năm trở lại đây, đạt 17,6 tỷ USD, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước.
Chính sách tiền tệ thành công, VND ổn định hiếm có
Về điều hành chính sách tiền tệ, lãnh đạo HSBC Việt Nam nhận xét, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có một năm thành công khi sử dụng những chính sách hợp lý, linh hoạt để ổn định tỷ giá, kiềm chế lạm phát nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vĩ mô. Trong năm, cơ quan điều hành đã chủ động sử dụng một loạt các công cụ thị trường tiền tệ như hạ lãi suất điều hành, hạ lãi suất thông qua kênh tín phiếu/thị trường mở, hạ tỷ giá mua vào song song với việc điều chỉnh tăng dần tỷ giá trung tâm phù hợp với diễn biến thị trường.
Tiền Đồng tiếp tục nằm trong nhóm những đồng tiền ổn định nhất khu vực bất chấp những bất ổn địa chính trị và các sự kiện kinh tế trong và ngoài nước. Cặp tỷ giá USD/VNĐ gần như duy trì đà ổn định xuyên suốt trong hầu hết các tháng của 2019 và thậm chí VNĐ tăng giá so với đồng bạc xanh khi NHNN chủ động hạ giá mua vào ngày cuối tháng 11. Cụ thể, tỷ giá USD/VNĐ trên thị trường liên ngân hàng trong năm chỉ dao động trong biên độ tương đối hẹp và dao động quanh tỷ giá mua vào của NHNN ở mức 23.200 và sau đó là 23.175 khi NHNN hạ giá mua USD. Từ đó NHNN cũng mua được lượng lớn ngoại tệ, gia tăng dự trữ ngoại hối lên mức cao kỷ lục từ trước tới nay.
Đáng lưu ý, trong bối cảnh thị trường toàn cầu chứng kiến nhiều biến động, đặc biệt là cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc có nhiều diễn biến khó lường khiến đồng Nhân Dân Tệ (CNY) của Trung Quốc mất giá xuống mức thấp nhất trong 11 năm qua, tiền Đồng vẫn giữ được xu hướng ổn định. Xu hướng này càng rõ nét hơn khi Trung Quốc là một trong ba đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam.
Lạm phát thấp hơn mục tiêu
Áp lực về lạm phát được kiểm soát với mức trung bình 2,6% tính tới thời điểm tháng 11, hạ từ mức 3,5% năm 2018 và thấp hơn nhiều so với mục tiêu "dưới 4%" mà NHNN đã đề ra từ đầu năm.
Bên cạnh đó, nguy cơ giảm tốc tăng trưởng của các nền kinh tế trong khu vực cũng như các đối tác thương mại chủ chốt của Việt Nam như Trung Quốc lục địa, Mỹ và EU. Các thị trường này chiếm tới một nửa tổng khối lượng xuất khẩu của Việt Nam do đó xuất khẩu sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nếu có sự suy giảm về cầu, từ đó tác động tới tăng trưởng chung của cả nước. Với lạm phát, mặc dù ở môi trường triển vọng về giá dầu giảm, lạm phát có thể được kiểm soát tuy nhiên, theo ông Ngô Đăng Khoa, trong những tháng cuối năm chỉ số CPI có dấu hiệu tăng nhanh do giá thực phẩm tăng chịu ảnh hưởng của dịch tả lợn châu Phi, đây cũng là tín hiệu đáng quan sát cho năm sau.
Một trong những thách thức lớn nhất của nền kinh tế Việt Nam là chi phí trả nợ vay
Đại diện HSBC Việt Nam cho rằng, một trong những thách thức lớn nhất của nền kinh tế Việt Nam là chi phí trả nợ vay khi Việt Nam không còn nằm trong số các nước được hưởng các khoản vay ưu đãi. Trong lúc đó, chúng ta vẫn cần cân đối giữa quản lý để giảm nợ và nhu cầu đầu tư vào cơ sở hạ tầng để hiện thực hóa các tiềm năng kinh tế. Một yếu tố cần lưu ý nữa là Việt Nam là nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào thương mại và bất cứ một sự suy giảm về cầu cũng có tác động tới tăng trưởng.
Trong bối cảnh đó phải xét tới thực tế là các nền kinh tế đối tác thương mại của Việt Nam sẽ giảm nhẹ tăng trưởng trong năm 2020. Và ông Khoa cho rằng, để có thể duy trì tăng trưởng trong năm sau, Việt Nam sẽ cần nhiều cải cách hơn nữa, đồng thời phát triển thị trường vốn nợ nội địa. Hiện tại, thị trường vốn của Việt Nam còn đi sau các nước trong khu vực khá xa, thị trường trái phiếu chính phủ có quy mô nhỏ nhất Đông Nam Á, vẫn còn dư địa để phát triển nếu chúng ta có và thực hiện đúng những kế hoạch cho trung và dài hạn.
Những kỳ vọng trong năm 2020
Bước sang năm 2020, theo ông Ngô Đăng Khoa, Việt Nam có cơ sở để kỳ vọng tỷ giá tiếp tục được điều hành theo cơ chế linh hoạt. Đáng chú ý, với việc dự trữ ngoại hối cao kỷ lục, NHNN có đủ công cụ và nguồn lực để điều hành tỷ giá theo hướng ổn định, đáp ứng cung-cầu thị trường. Tuy nhiên, vẫn có những thách thức cần quan sát và theo dõi như những bất ổn khi kinh tế toàn cầu có dấu hiệu chậm lại, cuộc chiến thương mại và Brexit đều chưa đến hồi kết, 2020 là năm bầu cử Tổng thống Mỹ, ...
Dẫu vậy, việc Việt Nam gần đây bị đưa vào danh sách theo dõi thao túng tỷ giá của Mỹ cũng là một tín hiệu đáng lo ngại. Nhu cầu nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam trong năm tới cũng có thể bị ảnh hưởng do tác động từ việc sụt giảm nhu cầu toàn cầu, do đó nguồn thu từ xuất khẩu có thể sẽ không còn được tích cực như trong năm nay. Xu hướng tỷ giá tiếp tục là biến số khó lường trong bối cảnh tình hình địa chính trị trên thế giới liên tục vận động. NHNN sẽ tiếp tục phối hợp với cơ quan điều hành chính sách điều hành thị trường theo hướng linh hoạt, chủ động để tránh tạo ra những cú sốc về tỷ giá, lãi suất. Và đại diện HSBC cho rằng kinh tế năm sau nhiều khả năng sẽ đứng trước nhiều khó khăn hơn, dẫn đến vấn đề định hướng hướng đi cho tỷ giá cũng đứng trước nhiều thách thức.
Về phía doanh nghiệp, đặc biệt với các doanh nghiệp có yếu tố XNK, các doanh nghiệp có khoản vay nước ngoài bằng ngoại tệ, theo ông Ngô Đăng Khoa, đứng trước những biến động khó lường của tỷ giá, doanh nghiệp cần chủ động sử dụng các công cụ phòng vệ tỷ giá, lãi suất, đặc biệt thông qua các sản phẩm phái sinh tiền tệ như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi lãi suất, ... dể đảm bảo chủ động trong hoạch định dòng tiền và cân đối lợi nhuận.
Tiêu dùng cá nhân của Việt Nam chiếm tới 75% trong tăng trưởng GDP năm năm gần đây nhất, chỉ đứng thứ hai sau Philippines về tỷ trọng trong GDP. Nền kinh tế cũng được hưởng lợi từ việc chuyển đổi lao động từ nông nghiệp qua các ngành đòi hỏi kỹ năng cao. Nền kinh tế của Việt Nam đang dần chuyển sang nền kinh tế tập trung vào tiêu dùng, chỉ số niềm tin tiêu dùng cũng thuộc hàng cao nhất trên thế giới do triển vọng tích cực về nghề nghiệp và tăng trưởng kinh tế. Tầng lớp trung lưu cũng đang gia tăng. Những điều này đang đem lại vị thế tích cực cho Việt Nam để có thể tận dụng các lợi thế cạnh tranh của mình.
Tùng Lâm (ghi theo báo cáo)
Theo Trí thức trẻ
Sau khi lập đỉnh thanh khoản, thị trường chứng khoán bắt đầu hạ nhiệt Từ đầu năm 2020, dưới tác động của COVID-19, thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua nhiều biến động. Ảnh: Quý Hòa. Đỉnh của thanh khoản Tháng 3.2020, chỉ số VN-Index chạm đáy quanh mốc 649 điểm. Kể từ đó đến tháng 4, thị trường chứng khoán liên tục tăng điểm. Và giai đoạn này, nhà đầu tư thế hệ F0...