Động lực tăng trưởng kinh tế Việt Nam: Những con số ‘biết nói’
Với con số xuất siêu 9 tháng đạt gần 17 tỷ USD, các chuyên gia kinh tế cho rằng xuất khẩu sẽ là một trong những động lực tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cuối năm nay.
Sản xuất hàng dệt may. (Nguồn: TTXVN)
Với mức tăng trưởng GDP 9 tháng đầu năm 2020 đạt 2,12%, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có mức tăng trưởng dương duy nhất ở khu vực ASEAN và là một trong số ít quốc gia và vùng lãnh thổ đạt mức tăng trưởng dương trên thế giới.
Có được kết quả này là nhờ sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời, đúng hướng của Chính phủ trong từng tình huống, thời điểm, từ đó tạo nên sức bật và động lực cho tăng trưởng kinh tế những tháng cuối năm và năm 2021.
Những con số biết nói
Với con số xuất siêu 9 tháng đạt gần 17 tỷ USD, các chuyên gia kinh tế cho rằng xuất khẩu sẽ là một trong những động lực tăng trưởng kinh tế cuối năm nay.
Cùng với đó, sau hơn 2 tháng Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU ( EVFTA) có hiệu lực, đã có gần 15.000 bộ giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) mẫu EUR.1 với kim ngạch gần 700 triệu USD đi các nước EU đã được cấp.
Các mặt hàng được cấp mẫu này chủ yếu gồm giày dép, thủy sản, nhựa và các sản phẩm nhựa, càphê, hàng dệt may, túi xách, vali, rau quả, sản phẩm mây, tre, đan, nông sản, hàng điện tử…
Chỉ tính riêng tháng 8/2020, khi Hiệp định EVFTA được thực thi, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU đã đạt 3,25 tỷ USD, tăng 4,65% so với tháng 7/2020. Đến tháng 9, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này tăng mạnh lên 14,4% so với cùng kỳ năm 2019.
Theo Bộ Công Thương, ngoài thị trường EU, trong 9 tháng đầu năm 2020, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 54,73 tỷ USD, tăng 22,6% so với cùng kỳ năm 2019, tiếp đến là Trung Quốc, ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản…
Tính chung 9 tháng đầu năm nay, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu cả nước đạt 202,4 tỷ USD, tăng 4% so với cùng kỳ năm 2019. Điểm nổi bật là khu vực kinh tế trong nước tiếp tục tạo động lực cho sự tăng trưởng xuất khẩu với kim ngạch đạt 71,4 tỷ USD, tăng 19,5% so với cùng kỳ năm 2019.
Theo Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV, xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2020 tăng so với cùng kỳ năm ngoái là nhờ sự phục hồi khả quan của nhu cầu quốc tế và hiệu ứng tích cực của Hiệp định EVFTA.
Đáng chú ý, nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ chốt đã tăng trở lại như: gỗ tăng 12,4%, gạo tăng 12%, phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 2,8%.
Một số mặt hàng xuất khẩu giảm ít hơn mức giảm mạnh của 8 tháng trước như: dệt may giảm 10,3%, điện thoại và linh kiện giảm 5,5%, cà phê giảm 1%, thủy sản giảm 3%.
Theo Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Thị Hương, trong các ngành, lĩnh vực có đóng góp chính cho tăng trưởng 9 tháng đầu năm phải kể đến ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, với mức tăng 4,6% so với cùng kỳ năm 2019. Ngoài ra, ngành bán buôn và bán lẻ cũng đóng góp tích cực cho tăng trưởng với mức tăng 4,98% so với cùng kỳ năm 2019.
Video đang HOT
Các chuyên gia cho rằng thị trường bán lẻ sau khi dịch COVID-19 được kiểm soát sẽ có nhiều thay đổi; đồng thời, dịp lễ, Tết đang đến gần nên dự báo nhu cầu hàng hóa sẽ tăng cao. Hơn nữa, thương mại điện tử sẽ không lấy mất thị phần của hệ thống bán lẻ truyền thống mà là điểm cộng cho nhà bán lẻ biết nắm bắt thời cơ.
Một khu vực cũng đóng góp lớn cho tăng trưởng 9 tháng đầu năm 2020 là nông nghiệp. Mặc dù chịu tác động kép do khó khăn đầu ra xuất khẩu, thiên tai khắc nghiệt, nhưng ngành nông nghiệp đã có sự phục hồi tích cực, đóng góp 13,62% vào mức tăng trưởng chung, cao hơn mức đóng góp 4% của cùng kỳ năm 2019.
Theo Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV, mặc dù trong 9 tháng lĩnh vực nông nghiệp tăng 1,84%, thấp hơn mức tăng 2,02% của cùng kỳ năm 2019, song cải thiện so với mức tăng 1,19% của 6 tháng đầu năm nhờ các biện biện pháp ứng phó kịp thời với thiên tai và dịch bệnh.
“Trong bối cảnh các động lực của nền kinh tế là công nghiệp-xây dựng-dịch vụ chịu nhiều tác động tiêu cực của dịch bệnh, khu vực nông nghiệp là bệ đỡ vững chắc cho tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia,” Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV khẳng định.
Giải ngân vốn đầu tư cũng là một trong những động lực tăng trưởng GDP năm 2020 và các năm tiếp theo bởi 9 tháng đầu năm 2020 đạt 303.000 tỷ đồng, bằng gần 60% kế hoạch năm và tăng 33% so với cùng kỳ năm 2019. Đây là mức tăng trưởng cao nhất nhất trong 5 năm qua, tạo sự hỗ trợ, lan tỏa cho nhiều khu vực kinh tế vốn đang chịu ảnh hưởng của dịch bệnh.
Đặc biệt, mới đây, tại 3 tỉnh Thanh Hóa, Bình Thuận và Đồng Nai đã đồng loạt khởi công 3 dự án lớn thuộc cao tốc Bắc-Nam phía Đông có tổng vốn đầu tư khoảng 37.000 tỷ đồng và dự kiến đưa vào khai thác cuối năm 2022.
Với chiều dài 654km gồm 11 dự án thành phần, dự án cao tốc Bắc-Nam sẽ từng bước hoàn thiện kết cấu giao thông đồng bộ, góp phần kết nối các trung tâm kinh tế, nhất là 3 vùng kinh tế trọng điểm, các khu kinh tế, khu công nghiệp trọng yếu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cả nước.
Cùng với đó, các ngành tài chính, ngân hàng cũng có xu hướng phục hồi, tạo tiền đề quan trọng cho quý 4 và cả năm 2020.
Phát huy tinh thần tự lực, tự cường
Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp và ảnh hưởng của dịch COVID-19, tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh tới tinh thần “tự lực, tự cường mạnh mẽ hơn nữa trong phát triển đất nước.”
“Nền kinh tế nước ta đã đi qua đáy trong quý 2 và đang phục hồi theo hình chữ V. Cùng với đó, tăng trưởng trong quý 3 đạt 2,62% là cơ sở để nhận định rằng chúng ta có thể tăng trưởng dương trong năm 2020,” Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh.
Thực tế cho thấy những thành công trong thực hiện “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch vừa phục hồi, phát triển kinh tế của Việt Nam đã được nhiều nước trên thế giới ghi nhận.
Nhiều tổ chức quốc tế như Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Thế giới (WB) và mới đây là Hãng xếp hạng tín nhiệm quốc tế S&P Global Ratings đã đưa ra những dự báo khả quan với nhận định Việt Nam là một trong những nền kinh tế có tốc độ phục hồi tăng trưởng khá nhất trong khu vực Đông Nam Á và là nền kinh tế duy nhất có thể tăng trưởng dương trong năm nay.
Năm 2021, ADB dự báo Việt Nam tăng trưởng 8,1%, S&P dự báo Việt Nam tăng trưởng 11,2%.
Các tổ chức quốc tế cho rằng Việt Nam tham gia nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương sẽ giúp nền kinh tế đất nước phục hồi. Việt Nam có nhiều khả năng được hưởng lợi từ sự dịch chuyển hiện nay của các chuỗi cung ứng sang những quốc gia có chi phí thấp hơn hay nền kinh tế sẽ được thúc đẩy nhờ thương mại và sản xuất.
Với tinh thần tự lực, tự cường và nắm bắt cơ hội kinh tế thế giới phục hồi sau dịch, Chính phủ đặt mục tiêu phấn đấu tăng trưởng kinh tế năm 2020 đạt từ 2,5 đến 3%, dự kiến năm 2021 đạt 6,7%.
Để đạt được mục tiêu trước mắt trong quý cuối cùng của năm và năm 2021, theo Viện Đào tạo và nghiêu cứu BIDV, những động lực cho tăng trưởng chính của Việt Nam theo hướng tập trung chủ yếu vào khu vực nông nghiệp; đồng thời công nghiệp chế biến, chế tạo trong các ngành sản xuất thiết bị điện tử, máy tính, điện thoại di động, sản xuất và lắp ráp ôtô vẫn sẽ là động lực cho tăng trưởng khu vực công nghiệp nói riêng và tăng trưởng nói chung.
Sản xuất-xuất khẩu nông sản và thiết bị điện tử, điện thoại, máy vi tính có thể bù đắp cho khó khăn đối với những ngành vốn là thế mạnh của Việt Nam như dệt may, da giày do suy giảm cả nguồn cung và cầu từ các đối tác quốc tế.
Dây chuyền chế biến ngô ngọt xuất khẩu. (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)
Theo bà Phó Thị Kim Chi, Phó trưởng ban Dự báo Kinh tế vĩ mô, Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế- xã hội Quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, dự báo năm 2021, với nền tảng vĩ mô khá ổn định và được đánh giá cao trong kiểm soát và đối phó với dịch bệnh, Việt Nam đang có lợi thế trong thu hút sự quan tâm của giới đầu tư và kinh doanh quốc tế. Đây là một yếu tố quan trọng, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh và xung đột thương mại có thể đẩy nhanh quá trình dịch chuyển vốn sang các thị trường tiềm năng.
Việc tham gia và thực hiện các FTA thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và EVFTA cũng là điều kiện để Việt Nam có thể mở rộng thị trường, thu hút đầu tư, công nghệ và cải thiện môi trường kinh doanh, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong năm 2021 và những năm tiếp theo.
Nhận định về xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng trên toàn cầu, ông Shimizu Akira, Trưởng đại diện Văn phòng JICA Việt Nam, cho rằng xu hướng này đem đến cho Việt Nam cơ hội mới. Tuy nhiên, Việt Nam cần cải thiện chất lượng nguồn nhân lực; phát triển cơ sở hạ tầng chất lượng cao để thu hút đầu tư nước ngoài.
Trong thời gian tới, những khó khăn, thách thức vẫn còn hiện hữu như dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, cảnh báo về rủi ro bất ổn tài chính toàn cầu do lượng tiền lớn, trong khi khả năng hấp thụ còn yếu có thể dẫn đến “bong bóng” tài chính cũng như ảnh hưởng bởi sự đứt gãy chuỗi cung ứng, dịch vụ chịu tác động lớn và phục hồi chậm…
Hơn lúc nào hết, các bộ, ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp phải có sự nỗ lực mạnh mẽ hơn nữa. Đặc biệt, không được chủ quan, lơ là để dịch bệnh bùng phát trở lại, mở cửa nhưng phải có sự kiểm soát. Đây cũng là yêu cầu của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đối với cả hệ thống chính trị trong bối cảnh hiện nay./.
Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 5 lần nhờ các hiệp định thương mại tự do
Chiều 23/9, tại tòa nhà Quốc hội, Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã họp về "Việc thực hiện các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam là thành viên".
Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng, trưởng đoàn phát biểu tại buổi làm việc. Ảnh: Dương Giang/TTXVN.
Góp phần tăng trưởng kinh tế
Phát biểu khai mạc buổi làm việc, Phó Chủ tịch thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng cho biết, cuộc làm việc hôm nay nhằm đánh giá tổng thể kết quả cũng như khó khăn thực hiện FTA mà Việt Nam ký kết và thực hiện. Từ đó làm rõ nguyên nhân và trách nhiệm của các bên liên quan để nâng cao hiệu quả trong công tác này thời gian tới
Thay mặt Tổ giúp việc của Đoàn giám sát, Ông Nguyễn Sỹ Cương, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội cho biết, Đoàn giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thực hiện giám sát "Việc thực hiện các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam là thành viên" trong 2 ngày 22-23/7/2020 với Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI).
Chuyên đề giám sát được tổ chức vào năm đánh dấu mốc 25 năm kể từ khi Việt Nam tham gia FTA đầu tiên là Hiệp định Khu vực thương mại tự do ASEAN - AFTA năm 1995, đánh dấu mốc tròn 8 năm thực hiện "Chiến lược tham gia các FTA của Việt Nam đến năm 2020" tại Quyết định số 1051/QĐ-TTg ngày 9/8/2012 của Thủ tướng Chính phủ.
Sau 25 năm, số FTA Việt Nam tham gia và đang đàm phán là 16 FTA trong đó có 13 FTA đã thực thi như FTA (năm 1996), FTA ASEAN - Trung Quốc (ACFTA, năm 2003).... trong đó có 2 FTA thế hệ mới đã được Quốc hội phê chuẩn là Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA; 3 FTA đang trong quá trình đàm phán gồm: Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP); FTA Việt Nam - Hiệp hội thương mại tự do châu Âu (Việt Nam - EFTA FTA); FTA Việt Nam - Israel.
Theo đánh giá, việc tham gia các FTA đã có tác động tích cực nhiều mặt đến nền kinh tế nước ta: Kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2019 tăng gấp 5 lần so với năm 2007, môi trường kinh doanh tăng 23 bậc, đứng thứ 5 trong ASEAN, năng lực cạnh tranh đứng thứ 7 trong ASEAN và thứ 8 về phát triển doanh nghiệp với 758.000 doanh nghiệp đang hoạt động, năng lực lao động tăng...Có thể nói, thành quả hội nhập xen kẽ với kết quả đổi mới và thúc đẩy quá trình đổi mới, lan tỏa tác động trong mọi lĩnh vực.
Thay mặt Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh đã báo cáo tóm tắt kết quả giám sát chuyên đề. Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh cho biết, mỗi FTA có tác động khác nhau đến thương mại Việt Nam. Việc ký kết và tham gia các FTA có tác động lớn đến nền kinh tế Việt Nam thông qua việc mở rộng thị trường xuất nhập khẩu. Theo đó, kim ngạch xuất nhập khẩu sang các nước đối tác sẽ tăng, củng cố thị trường truyền thống, khơi thông nhiều thị trường tiềm năng trên cơ sở thúc đẩy quan hệ với các đối tác chiến lược kinh tế quan trọng, nâng cao năng lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp trong nước, góp phần kiện toàn bộ máy nhà nước thông qua cải thiện chính sách và pháp luật theo hướng minh bạch hơn, thuận lợi, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế.
Cụ thể, trong năm 2019, kim ngạch trao đổi thương mại giữa Việt Nam và 10 nước CPTPP đạt 77,4 tỷ USD, tăng 3,9% so với năm 2018. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang 10 nước CPTPP đạt 39,5 tỷ USD, tăng 7,2% so với năm 2018. Kim ngạch nhập khẩu từ 10 nước CPTPP đạt 37,9 tỷ USD, tăng 0,7% so với năm 2018. Như vậy, trong năm 2019, Việt Nam đã xuất siêu sang các nước CPTPP là 1,6 tỷ USD trong khi năm 2018 Việt Nam nhập siêu từ các nước CPTPP là 0,9 tỷ USD.
Theo đại diện Bộ Công Thương, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường có FTA năm 2019 là 123,11 tỷ USD. Trong khi đó, năm 2004, Việt Nam mới có 2 đối tác FTA là ASEAN và Trung Quốc với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 7 tỷ USD.
Xét về tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân sang các thị trường đối tác FTA kể từ khi có Hiệp định FTA thì Ấn độ đạt bình uân 35,7%/năm, Hàn Quốc đạt 29,2%/năm, Chile là 28,9%/năm và Trung Quốc là 20,9%/năm.
Tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam sang các thị trường đối tác FTA của Việt Nam năm 2019 là 186 tỷ USD. Trong khi đó, năm 2004, Việt Nam mới có 2 đối tác FTA là ASEAN và Trung Quốc với tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 12,4 tỷ USD.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh phát biểu tại buổi làm việc. Ảnh: Dương Giang/TTXVN.
Còn nhiều thách thức trong thực thi FTA
Mặc dù các FTA đem lại nhiều kết quả trong phát triển kinh tế, nhưng báo cáo của Chính phủ cũng chỉ rõ các khó khăn, thách thức trong thực thi các FTA. Theo đó, các FTA mà Việt Nam đã tham gia cho tới nay về cơ bản là với các nước có cơ cấu kinh tế tương đối giống Việt Nam, thậm chí là cạnh tranh với Việt Nam như Ấn Độ, ASEAN, Trung Quốc... nên lợi ích thu được từ các FTA chưa mang tính đột phá.
Ngoài ra, một số mặt hàng nông sản của Việt Nam có sức cạnh tranh chưa cao do sản xuất nghiêng về số lượng, thị trường đối mặt với nhiều rủi ro. Một số doanh nghiệp không đảm bảo được chất lượng theo tiêu chuẩn của các nước đối tác. Đáng chú ý, trên 80% nông sản của Việt Nam vẫn xuất khẩu dưới dạng thô, kim ngạch còn thấp do giá trị xuất khẩu thấp hơn các sản phẩm cùng loại của nhiều nước khác.
Các doanh nghiệp của Việt Nam nhìn chung còn gặp nhiều hạn chế trong việc tham gia các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu còn chậm, tỷ lệ tận dụng ưu đãi chưa cao. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng nhưng sự phụ thuộc vào các nguyên liệu nhập khẩu vẫn còn rõ nét.
Trong khi đó, hệ thống các chính sách pháp luật nhìn chung còn thiếu, yếu và chồng chéo cần sửa đổi, bổ sung để đảm bảo thực hiện các cam kết. Việc tổ chức thực hiện các FTA chủ yếu được thực hiện ở một số cơ quan quản lí nhà nước, chưa đồng bộ và chủ động tại tất cả các địa phương...
Thảo luận tại buổi làm việc, các đại biểu bày tỏ sự nhất trí với Báo cáo của Chính phủ đồng thời khẳng định, việc tham gia các FTA đã có tác động tích cực nhiều mặt đến nhiều mặt của nền kinh tế. Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Trần Hoàng Ngân cho rằng, việc ký kết các FTA đã đem lại rất nhiều lợi ích cho quốc gia: Kinh tế tăng trưởng, GDP bình quân đầu người được cải thiện... Theo số liệu, năm 1995, GDP đầu người của Việt Nam chỉ 276 USD thì đến nay là khoảng 2.740 USD, gấp 10 lần. Việc ký kết các FTA đã hỗ trợ xuất khẩu, từ đó giảm nghèo, nâng cao GDP bình quân đầu người.
Qua xem xét các báo cáo, đại biểu Trần Hoàng Ngân kiến nghị Chính phủ quan tâm hơn nữa tới thị trường Ấn Độ. Thời gian qua, xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này có xu hướng tăng lên nhưng về quy mô còn quá nhỏ bé (chỉ có 6,6 tỷ USD cho thị trường 1,3 tỷ dân của Ấn Độ).
Liên quan đến việc tuyên truyền về các FTA, đại biểu cho rằng, việc điều tra phỏng vấn, tiếp cận doanh nghiệp để lấy thông tin phải tập trung vì chỉ có doanh nghiệp nào có thị trường xuất khẩu mới quan tâm đến. Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ sâu, không chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền, để nếu doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường đó thì được hưởng các hỗ trợ, ưu đãi đầy đủ.
Còn theo đại biểu Nguyễn Mạnh Tiến, để thực hiện tốt các FTA, cần có sự vào cuộc của các hiệp hội, ngành hàng, cùng với đó vai trò và trách nhiệm của tổ chức đầy mối thực thi các FTA cần được thể hiện hơn nữa.
VnDirect dự báo GDP Việt Nam năm 2020 tăng 3,5% nếu ngăn chặn được COVID-19 Trong trường hợp tình hình dịch bệnh tiếp tục kéo dài, VnDirect dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam chỉ tăng 2,3% so với năm 2019. VnDirect dự báo GDP Việt Nam năm 2020 tăng 3,5% nếu ngăn chặn được COVID-19 (Ảnh: Internet) Đợt bùng phát COVID-19 thứ 2 đã ảnh hưởng tiêu cực đến mọi mặt của nền kinh tế và...