Doanh nghiệp “vốn mỏng” và những hệ lụy
Một trong những hành vi tương đối phổ biến của các doanh nghiệp FDI trong thời gian qua là thực hiện chuyển giá thông qua hình thức vay vốn từ bên liên kết nước ngoài và trả lãi suất vay vốn rất cao.
Qua kiểm soát 140 doanh nghiệp có vốn vay gấp trên 4 lần vốn chủ sở hữu thì 100% số doanh nghiệp này đều là doanh nghiệp FDI. Ảnh minh họa: BNEWS/TTXVN
Thực tế hiện nay đang xuất hiện tình trạng nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), các doanh nghiệp có giao dịch liên kết sử dụng vốn vay thay vì vôn chủ sở hữu (tình trạng vôn mỏng) trong sản xuất, kinh doanh. Việc này gây nên tình trạng thiếu lành mạnh trong kinh doanh cũng như “tiếp tay” cho hoạt động chuyển giá.
TS. Đỗ Thiên Anh Tuấn, Đại học Fulbright Việt Nam cho biết, khi cơ câu vôn của doanh nghiêp chủ yêu được tài trợ bằng nợ thay vì vôn chủ sở hữu thì đó là tình trạng vôn mỏng. Tác dụng “lá chắn thuê” của lãi vay khiên cho các công ty rât thích đi vay nợ đê tài trợ đâu tư thay vì phát hành thêm vôn cô phân. Lá chắn thuế là khoản giảm thu nhập chịu thuế của một cá nhân hay doanh nghiệp đạt được thông qua những khoản được phép khấu trừ.
Theo Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng, số lượng doanh nghiệp FDI hiện chỉ chiếm 3% tổng số doanh nghiệp trong nước, nhưng quy mô tổng tài sản lên tới 5 triệu tỷ đồng. Đây là con số rất lớn khi so sánh quy mô tổng tín dụng của các tổ chức tín dụng chỉ hơn 7 triệu tỷ đồng.
Trong tổng tài sản 5 triệu tỷ đồng này, tổng vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp FDI là 1,5 triệu tỷ đồng, bao gồm cả vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và phần vốn đi vay.
Qua kiểm soát 140 doanh nghiệp có vốn vay gấp trên 4 lần vốn chủ sở hữu thì 100% số doanh nghiệp này đều là doanh nghiệp FDI, cá biệt có doanh nghiệp tỷ lệ này gấp hàng trăm lần như Samsung Display, Capitalland Tower… Trong khi đó, cổ tức chi cho các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam rất lớn, khoảng 10 tỷ USD.
Chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh cho rằng, một trong những hành vi tương đối phổ biến của các doanh nghiệp có vốn FDI trong thời gian qua là thực hiện chuyển giá thông qua hình thức vay vốn từ bên liên kết nước ngoài và trả lãi suất vay vốn rất cao.
Các công ty con tạo ra cơ cấu vốn và nguồn vốn bất hợp lý như: dùng nguồn vốn vay từ công ty mẹ để tài trợ cho tài sản cố định và tài sản đầu tư dài hạn mà không tăng vốn góp hay vốn chủ sở hữu nhằm đẩy chi phí hoạt động tài chính lên cao như: chi phí chênh lệch tỷ giá, chi phí lãi vay…
Với cách thức này, lợi nhuận từ doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt Nam đã được chuyển sang cho bên liên kết tại nước ngoài có mức thuế suất thấp hơn mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp tại Việt Nam để được hưởng mức thuế suất thấp.
Hiện nay, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam chỉ quy định không tính vào chi phí hợp lý, được trừ đi khi xác định thu nhập chịu thuế đối với phần chi trả lãi tiền vay vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp (trừ tổ chức tín dụng) vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố, mà không khống chế khoản chi phí lãi tiền vay đối với trường hợp khoản vay vượt quá nhiều lần vốn chủ sở hữu.
Vì vậy, có nhiều doanh nghiệp có khoản vay vượt gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu, đặc biệt là doanh nghiệp FDI vay vốn từ công ty mẹ, công ty liên kết với mức vay lớn, phải trả lãi lên đến vài nghìn tỷ đồng/năm dẫn đến thua lỗ.
Theo Bộ Tài chính, trong 3 năm gần đây, tỷ lệ doanh nghiệp FDI báo lỗ là trên 50%, dẫn đến tình trạng chuyển giá ngày càng phức tạp.
PGS.TS Lê Xuân Trường, Trưởng khoa Thuế và Hải quan, Học viện Tài chính nhìn nhận, đã có rất nhiều trường hợp công ty mẹ ở nước ngoài lựa chọn đầu tư vốn chủ sở hữu thấp nhưng lại tài trợ vốn hoạt động cho công ty con bằng hình thức cho vay vốn. Đây chính là một hình thức chuyển giá của doanh nghiệp FDI.
Điều này dẫn đến tình trạng thất thu ngân sách và tạo ra môi trường kinh doanh không lành mạnh. Ngoài ra, tình trạng này còn liên quan đến sự an toàn tài chính trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và các đối tác kinh doanh của doanh nghiệp.
Thực tế này diễn ra khá phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới chứ không chỉ ở Việt Nam. Vì thế, Tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Âu (OECD) đã có những khuyến cáo về các biện pháp pháp lý cần áp dụng để hạn chế tình trạng vốn mỏng.
TS. Đỗ Thiên Anh Tuấn, Đại học Fulbright Việt Nam cho rằng, viêc sử dụng nợ vay quá mức không chỉ làm tăng rủi ro tài chính mà còn làm phát sinh rủi ro đạo đức. Đê kiêm soát tình trạng này, môt sô quôc gia đưa ra giới hạn trân vay nợ so với vôn tự có. Quy định này có bản chât tựa như quy định vê hê sô an toàn vôn tôi thiêu áp dụng cho các ngân hàng nhưng đơn giản hơn.
Ngoài ra, tổng chi phí lãi vay phát sinh trong kỳ của người nộp thuế nếu vượt quá 20% tổng lợi nhuận trước thuế chưa trừ khấu hao và lãi vay của người nộp thuế sẽ không được xem là chi phí được trừ cho mục đích tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
Đây là biện pháp để hạn chế tình trạng một số tập đoàn đa quốc gia góp vốn dưới hình thức cho vay để được hạch toán khấu trừ chi phí lãi vay, tập trung lãi vay vào các quốc gia có mức thuế thu nhập doanh nghiệp cao để chuyển lợi nhuận sang các quốc gia khác.
TS. Đỗ Thiên Anh Tuấn cho biết, nhiều nước trên thế giới có quy định về vốn mỏng, theo đó phần lãi phải trả đối với phần vốn vay vượt quá tỷ lệ nhất định (tỷ lệ vốn vay/vốn chủ sở hữu) không được coi là chi phí được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
Các nước như: New Zealand, Đức, Australia, Nhật Bản, Ba Lan, Hà Lan, Tây Ban Nha, Chile, Peru, Nam Phi, Bồ Đào Nha, Brazil… quy định vốn vay của doanh nghiệp/vốn chủ sở hữu vượt quá tỷ lệ 3/1 thì được coi là vốn mỏng.
Dưới góc độ chuyên gia thuế, PGS.TS Lê Xuân Trường, Trưởng khoa Thuế và Hải quan, Học viện Tài chính cho rằng, đối với Việt Nam, có một số giải pháp có thể giải quyết vấn đề “vốn mỏng”, chẳng hạn như quy định vốn pháp định đối với một số lĩnh vực kinh doanh; quy định về tỷ lệ an toàn vốn bắt buộc phải tuân thủ giữa vốn vay với vốn chủ sở hữu; quy định về chi phí lãi vay không được trừ tính thuế thu nhập doanh nghiệp gắn với tỷ lệ giữa vốn vay và vốn chủ sở hữu…
Theo ông Trường, nhiều nước trên thế giới có quy định về “vốn mỏng”, tức là doanh nghiệp hoạt động chủ yếu dựa vào vốn đi vay, tỷ lệ vốn vay/vốn chủ sở hữu quá cao. Khi đó, phần lãi phải trả đối với phần vốn vay vượt quá tỷ lệ nhất định (tỷ lệ vốn vay/vốn chủ sở hữu) không được coi là chi phí được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
Đây là một kinh nghiệm rất hay mà Việt Nam nên áp dụng. Khi áp dụng nên xác định các tỷ lệ giữa vốn vay/vốn chủ sở hữu phù hợp với đặc thù của các lĩnh vực kinh doanh, không nên quy định một tỷ lệ chung cho mọi lĩnh vực kinh doanh, PGS. TS Lê Xuân Trường đề xuất./.
Theo bnews.vn
Video đang HOT
Nợ đọng chất chồng, ai chịu?
Trong phiên chất vấn hôm nay (5-6), cử tri mong chờ Bộ trưởng Giao thông Vận tải giải trình một cách thuyết phục phương án trả nợ và bố trí nguồn cho xây dựng các dự án giao thông - "mạch máu" của nền kinh tế
Trong hơn 9.600 dự án đang triển khai trên cả nước, có 8.000 dự án chuyển tiếp và chỉ 400 dự án khởi công mới, nguồn lực còn lại dành trả nợ và thanh toán. Riêng ngành giao thông vận tải (GTVT) tồn đọng nợ trên 20.000 tỉ đồng. Nợ đọng xây dựng cơ bản gây áp lực trả nợ lớn, làm mất cơ hội đầu tư dự án cấp bách mới.
Ứng trước, trả sau
TS Nguyễn Đức Độ, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế - Tài chính thuộc Học viện Tài chính, nhận diện khoản nợ trên 20.000 tỉ đồng của ngành giao thông là do tình trạng xây dựng các dự án thời kỳ trước một cách ồ ạt nhưng không bố trí được vốn từ kế hoạch quyết toán ngân sách thu chi hằng năm mà phải chuyển qua quyết toán các năm sau. Tình trạng này kéo dài qua nhiều năm dẫn đến nợ đọng ngày càng tăng và khó xử lý. "Tuy khoản nợ này sẽ được bố trí xử lý dần thông qua cân đối dòng tiền các năm, không phải là nợ công nhưng đã gây áp lực lên cân đối ngân sách. Theo đó, ngân sách phải trả nợ các dự án cũ trong thời gian dài khiến cạn kiệt nguồn xây dựng dự án mới, ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển kinh tế - xã hội bởi dự án giao thông được coi là "mạch máu" của nền kinh tế" - ông Độ phân tích.
Đầu tư hạ tầng giao thông vẫn là vấn đề cấp thiết hiện nay Ảnh: NGUYỄN HƯỞNG
Dù vậy, ông Độ cho rằng đầu tư cho hạ tầng giao thông là vấn đề cấp thiết nhằm phục vụ nhu cầu tăng trưởng của các ngành kinh tế nên không thể đòi hỏi ngành này không có nợ đọng cơ bản, song cần cân đối hài hòa giữa phần dành cho trả nợ và phần đầu tư mới. "Nợ đọng là hậu quả của giai đoạn đầu tư trước, phải phân bổ trả dần. Kế hoạch đầu tư công trung hạn phải thể hiện được sự hài hòa giữa giải quyết nợ đọng và đầu tư dự án cấp bách mới" - ông Độ nhấn mạnh.
Theo chuyên gia kinh tế - TS Lê Đăng Doanh, quốc gia nào trong quá trình phát triển đều đầu tư mạnh vào GTVT. Việt Nam nợ đọng lớn tại ngành này trong thời kỳ trước thực chất là hệ quả của đòi hỏi phát triển hạ tầng phục vụ nền kinh tế. Thế nên, con số nợ đọng 20.000 tỉ đồng sẽ không "quá nghiêm trọng" nếu các phương án phân bổ, quyết toán ngân sách, đầu tư công trung hạn giải quyết được vấn đề trả nợ song hành với đầu tư. "Vấn đề tồn tại ở nhiều dự án đầu tư tại Việt Nam, không riêng ngành giao thông, là mức độ hiệu quả kém, không chỉ ra được nguồn vốn dành để giải quyết. Chúng ta chấp nhận làm trước trả nợ sau nhưng phải có nguồn để trả. Đầu tư kém hiệu quả, khó xử lý nợ đọng sẽ là gánh nặng rất lớn cho nền kinh tế. Trung Quốc đầu tư thiếu tính toán vào GTVT khiến số nợ của chính phủ nước này lên đến 256% GDP. Đây là bài học lớn cho Việt Nam soi xét" - TS Lê Đăng Doanh chỉ ra và góp ý bất cứ dự án nào sau này, trước khi quyết định phê duyệt, cần thuyết minh đầy đủ hiệu quả kinh tế và nguồn lực.
Cần quy trách nhiệm rõ
Sốt ruột khi các khoản nợ có thể ảnh hưởng đến ngân sách quốc gia, ông Đặng Đình Đào, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và phát triển thuộc Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, nhấn mạnh cần chỉ rõ trách nhiệm gây nợ đọng thuộc về ai. "Nhiều dự án, công trình đầu tư công có nhiều vấn đề thất thoát, lãng phí, đội vốn, kéo dài thời gian. Nếu cứ đầu tư để đạt mục đích rồi dồn nợ lại thì cuối cùng nền kinh tế chưa kịp hưởng lợi từ hạ tầng phát triển đã phải xử lý gánh nặng nợ. Không thể không đầu tư nhưng không vì thế mà đầu tư bất chấp hiệu quả, không tính toán. Hiện nay, bên cạnh đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công thông qua thực hiện tốt pháp luật đầu tư thì cần nêu rõ trách nhiệm của người trình, phê duyệt dự án gây nợ đọng khó xử lý. Chỉ khi chỉ rõ trách nhiệm cá nhân thì mới có tính răn đe về sau, tránh được tình trạng đầu tư sai, không đúng mục tiêu, bắt ngân sách gánh chịu như hàng loạt dự án giao thông hoặc các dự án thua lỗ của ngành công thương" - ông Đào nêu quan điểm.
Theo TS Lê Đăng Doanh, con số nợ đọng 20.000 tỉ đồng của ngành GTVT không hề nhỏ, liên quan đến trách nhiệm của nhiệm kỳ trước khi phê duyệt cho xây dựng các dự án này. Nhưng dù là trách nhiệm của nhiệm kỳ trước thì bộ trưởng Bộ GTVT, bộ trưởng Bộ Tài chính giai đoạn này bắt buộc phải xử lý, giải quyết một cách phù hợp. "Tôi rất mong đợi các bộ trưởng giải trình phương án tài chính, hoàn vốn, trả nợ sao cho thuyết phục; sau đó mới tính đến đầu tư hiệu quả, có trọng điểm vào dự án mới theo tinh thần liệu cơm gắp mắm, có xếp thứ tự ưu tiên" - ông Doanh nói.
Phải xóa bỏ tư duy nhiệm kỳ
Một trong những lý do dẫn đến nợ đọng của nền kinh tế trở nên nặng nề như hiện nay là việc đầu tư tràn lan, dàn trải, dẫn đến lãng phí nguồn vốn. Nhiều dự án quá nhỏ, chỉ khoảng 50 tỉ đồng, không mang lại hiệu quả kinh tế lớn nhưng cũng không bố trí được nguồn để xử lý nợ. Do vậy, nhiều ý kiến cho rằng ngoài tiết kiệm chi, siết chặt sử dụng vốn thì cần xác định rõ khu vực cần ưu tiên đầu tư phát triển.
Ông Phạm Phú Quốc, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, chỉ ra hiện nay có rất ít dự án có quy mô mang tính trọng tâm, trọng điểm vùng, có ý nghĩa vực cả khu vực kinh tế lên. Đây là những dự án cần được ưu tiên và quyết liệt thực hiện. "Hầu hết những nước trong khu vực hoặc trên thế giới đã phát triển đều đã hoàn thành hạ tầng cơ sở liên quan đến đường sá, cầu cống, cấp thoát nước từ vài chục năm hay hàng trăm năm trước. Đó là vì họ đầu tư có trọng điểm. Ngân sách nhà nước cần ưu tiên cho rất nhiều vấn đề cấp bách như biến đổi khí hậu, nước biển dâng... nhưng không thể từ chối nhu cầu về hạ tầng giao thông. Nguồn lực đầu tư vào các công trình lớn này tuy nặng nhưng đầu tư được thì kinh tế sẽ đi lên" - ông Quốc nói.
Phân tích thêm về nhu cầu vốn cho phát triển, ông Phạm Phú Quốc cho rằng điều kiện của quốc gia hiện nay bắt buộc phải vay nợ. Tuy nhiên, khi tính chiến lược trung - dài hạn thì cần chỉ ra được nguồn lực để cân đối. Khi khớp được nguồn cần đầu tư với nguồn chi trả thì dù nợ đọng nhiều hơn con số hiện tại cũng không phải là vấn đề nghiêm trọng với nền kinh tế. "Việc tạm chuyển từ dự án này sang dự án khác theo cách cấn trừ lẫn nhau hoặc dùng dự phòng để phân bổ là không trái quy định. Nhưng nếu dòng tiền được định hình rõ ràng, cụ thể thì chắc chắn sẽ hiệu quả hơn, tiết kiệm được đồng vốn và hạn chế nợ đọng. Hiện tại, chúng ta vẫn chưa làm rõ được từng dự án cần chi bao nhiêu, có thể cắt giảm từ dự án nào sang nên doanh nghiệp cũng như nhà nước dễ gặp rủi ro về dòng tiền" - ông Quốc nhìn nhận.
Cũng theo ông Phạm Phú Quốc, cần đánh giá tổng thể để chấn chỉnh vấn đề sử dụng ngân sách. Đồng thời, khi các nguồn cũ đang cạn dần, cần có phương án tận dụng hiệu quả hơn một số nguồn chưa tận dụng hết, chẳng hạn như nguồn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và vốn hóa tài sản công.
TS Nguyễn Đức Độ cho rằng việc xử lý nợ đọng cơ bản là nhiệm vụ chung của các thành viên Chính phủ khi nhận nhiệm vụ trong thời điểm nợ đọng tồn lại từ giai đoạn trước ngày càng lớn.
"Trước đây có tư duy đánh giá thành tích mỗi nhiệm kỳ qua số lượng dự án, công trình làm được. Do đó mới có tình trạng một nhiệm kỳ bộ trưởng cho đầu tư rất nhiều dự án rồi hậu quả đến thời kỳ sau là thua lỗ liên miên. Tư duy đó hiện nay không còn phù hợp. Cách đánh giá hiệu quả công việc của các thành viên Chính phủ cũng phải thay đổi theo hướng nếu góp phần đưa giải pháp bố trí trả nợ đọng hiệu quả cũng là thành tích, còn không sẽ tiếp diễn tình trạng nhiệm kỳ nào lo đầu tư dự án của nhiệm kỳ đó, nợ đọng cũ coi như không phải trách nhiệm của mình. Như thế, nợ sẽ càng chồng lên nợ" - ông Độ thẳng thắn nói.
Theo nld.com.vn
Bất thường việc phát hành cổ phiếu tại DGT: Quyền cổ phần nhà nước giảm nghiêm trọng Công ty cổ phần Công trình giao thông Đồng Nai (DGT) không ưu tiên bán cổ phần cho các cổ đông hiện hữu đã làm suy giảm nghiêm trọng tỷ lệ sở hữu của họ, trong đó có cả phần vốn của nhà nước. Ngọc Thắng Quyền cổ đông hiện hữu giảm 2,6 lần Vốn điều lệ của công ty DGT là 24,81...