Doanh nghiệp điện tìm cửa hút vốn ngoại
Nhiều doanh nghiệp điện đang tính đến phương án gọi vốn ngoại để đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án, trong bối cảnh việc thu xếp vốn từ các tổ chức tín dụng trong nước gặp khó khăn.
Khó trông chờ dòng vốn nội
Lãi suất cao và các tiêu chuẩn ngặt nghèo là những rào cản lớn khiến nhiều doanh nghiệp đầu tư các dự án điện khó có thể trông chờ vào nguồn vốn trong nước cho đầu tư các dự án dài hạn, quy mô lớn.
Với mức giá bán điện mặt trời mặt đất theo Quyết định số 13/2020/QĐ-TTg, ngày 6/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ, là 7,09 cent/kW (khoảng 1.600 đồng/kW) và lãi suất của ngân hàng thương mại trong nước dao động từ 10 – 11,5 %/năm, tính toán của ông Hoàng Mạnh Tân, Phó tổng giám đốc Tập đoàn Sơn Hà cho thấy, hầu như doanh nghiệp không có lợi nhuận gì trong các dự án điện này.
“Theo tính toán tương ứng với suất đầu tư các dự án hiện tại, thời hạn hoàn vốn đầu tư thường phải trên 10 năm thì hiệu quả đầu tư không cao, không khuyến khích được các nhà đầu tư. Mức giá trên chỉ hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài hoặc các doanh nghiệp vay được nguồn vốn nước ngoài có lãi suất thấp để đầu tư”, ông Tân nhìn nhận.
Trong khi đó, Công ty cổ phần Nhiệt điện An Khánh – Bắc Giang lại đang gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc thu xếp nguồn vốn từ các ngân hàng trong nước do bị giới hạn bởi các quy định cho vay đối với một dự án không quá 15%, đối với nhóm khách hàng có liên quan không quá 25% vốn tự có của các ngân hàng.
Theo Tổng giám đốc Ngô Quốc Hội, hiện doanh nghiệp đang đầu tư dự án nhiệt điện công suất 650 MW với tổng vốn hơn đầu tư ước tính lên tới 1 tỷ USD. Tuy nhiên, do là dự án độc lập do tư nhân đầu tư nên dự án không có bảo lãnh của Chính phủ khiến việc thu xếp vốn vay thanh toán cho hợp đồng EPC của dự án gặp nhiều khó khăn.
Không chỉ bị giới hạn bởi các quy định cho vay, nhà đầu tư này còn phải chấp nhận một số điều kiện rất “khó nhằn” của phía ngân hàng mới có thể tiếp cận các khoản vay, chẳng hạn phải có phê duyệt của Bộ Công thương đối với sản lượng điện tối thiểu ở mức 90% sản lượng bình quân của vòng đời dự án trong tối thiểu 10 năm kể từ khi nhà máy vận hành thương mại.
“Điều này có nghĩa là ràng buộc việc EVN phải mua điện của doanh nghiệp trong mọi trường hợp, tức là khi nhà máy sẵn sàng phát điện mà kể cả EVN không huy động thì đơn vị này vẫn phải thanh toán 90% cho sản lượng này. Đây là điều kiện vô cùng khó khăn, nếu không nói là rào cản khiến doanh nghiệp khó có thể đáp ứng để tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng trong nước”, ông Hội băn khoăn.
Tìm cửa hút vốn ngoại
Khó có thể trông chờ việc tháo gỡ được các rào cản để tiếp cận nguồn vốn trong nước, ông Nguyễn Anh Tuấn, Tổng giám đốc Công ty cổ phần TTP Phú Yên – chủ đầu tư Dự án Nhà máy điện mặt trời Hòa Hội tại tỉnh Phú Yên cho biết, doanh nghiệp đã tiếp cận từ sớm với các nhà đầu tư ngoại, vốn rất quan tâm đến các dự án điện của doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các dự án năng lượng tái tạo với nhiều chính sách ưu đãi từ Nhà nước.
Doanh nghiệp này hiện đã đưa vào vận hành nhà máy với tổng công suất phát điện hơn 670 MW điện mặt trời, sắp tới dự kiến có thêm 400 MW điện gió. Cách thức giải bài toán vốn nhanh nhất chính là liên kết với các nhà đầu tư nước ngoài để huy động dòng vốn lớn này vào thị trường.
“Chúng tôi đã hợp tác với Tập đoàn B.Grimm Group của Thái Lan để thu xếp vốn cho Dự án tại tỉnh Phú Yên, nhờ đó nhận được nguồn vốn hỗ trợ từ ADB với các điều kiện hợp tác khá phù hợp”, ông Tuấn thông tin.
Tương tự, Tập đoàn HBRE hiện đang đầu tư 5 dự án điện gió quy mô lớn tại Nam Trung Bộ và khu vực Tây Nguyên đã chọn phương án hợp tác với nhà đầu tư Thái Lan và Pháp một cách hiệu quả, thông qua hình thức chuyển nhượng cổ phần, góp vốn cổ đông.
Theo tính toán của Chủ tịch HBRE Hồ Tá Tín, với hiệu suất sinh lợi tối thiểu 15%/năm, các nhà đầu tư điện gió trong nước hoàn toàn có thể tính tới phương án liên kết chuyển nhượng cổ phần với nhà đầu tư nước ngoài.
Video đang HOT
Đây cũng là lý do giải thích cho việc ngày càng nhiều tập đoàn năng lượng lớn trên thế giới, đặc biệt là các nhà đầu tư đến từ Thái Lan, Philippines, Trung Quốc… trở thành ông chủ mới của các dự án điện mặt trời ở Việt Nam. Ngoài hợp tác triển khai với TTP Phú Yên để triển khai dự án tại Phú Yên, Công ty Năng lượng B.Grimm Power, một nhánh đầu tư của Tập đoàn Thái Lan B.Grimm còn mua cổ phần của Công ty cổ phần Năng lượng Dầu Tiếng Tây Ninh để triển khai dự án dự án điện mặt trời Dầu Tiếng (công suất 420 MW), một trong những dự án lớn nhất Đông Nam Á về năng lượng tái tạo.
Trong khi đó, tập đoàn năng lượng cũng đến từ Thái Lan là Gulf Energy Development đã trở thành cổ đông chiếm 90 – 95% vốn tại hai dự án điện mặt trời tại Tây Ninh là TTC1 và TTC 2 và dự án năng lượng tại Bến Tre. Một nhà đầu tư Thái khác là Super Energy Corporation cũng đã mua lại cổ phần và đầu tư vào hàng chục dự án điện gió, điện mặt trời tại Việt Nam và đã nâng dần sở hữu để trở thành cổ đông lớn tại các dự án này.
Chuyên gia kinh tế trưởng của BIDV, TS. Cấn Văn Lực dự báo, xu hướng nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần các dự án điện lớn trong nước còn gia tăng mạnh trong thời gian tới, nhất là với các dự án có tiềm năng cho hiệu suất sinh lời ở mức hấp dẫn, ổn định.
Cửa sáng, nhưng không dễ
Tuy dòng vốn ngoại rất dồi dào, sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực năng lượng cũng ngày càng gia tăng, song cửa huy động vốn ngoại không hề dễ dàng đối với các doanh nghiệp điện. Giám đốc TTP Phú Yên cho biết, hiệu suất của dự án là yếu tố hàng đầu được nhà đầu tư ngoại cân nhắc đối với mỗi dự án.
Còn theo ông Hồ Tá Tín, “nếu hiệu suất sinh lợi tối thiểu của toàn vòng đời dự án dưới 15% thì khó có thể thu hút được nhà đầu tư ngoại, do đó, cơ chế giá nào để đảm bảo mức lợi nhuận thu hút đầu tư sau khi giá FIT kết thúc là yếu tố được các doanh nghiệp rất quan tâm”.
Ở góc nhìn của nhà đầu tư ngoại, bà Maria Goravanchi, Giám đốc điều hành khu vực Mê Kông, Tập đoàn Tài chính Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (DFC) nêu một thực tế là nhiều nhà đầu tư vẫn khá quan ngại về các rủi ro trong chuyển đổi ngoại tệ, chuyển tiền ra nước ngoài và lo ngại sự can thiệp của Chính phủ trên thị trường ngoại hối.
“Dù nhìn thấy cơ hội đầu tư vào Việt Nam, song nhà đầu tư quốc tế vẫn còn nhiều lo ngại về rủi ro pháp lý, chậm tiến độ xây dựng và vận hành dự án, khả năng hạn chế mua điện của EVN, rủi ro gián đoạn kinh doanh, hay bên bao tiêu mất khả năng thanh toán… Đây thực sự là những vấn đề lớn mà nhà đầu tư nước ngoài phải cân nhắc khi rót vốn đầu tư các dự án”, ông Hugo Virag, đại diện Tập đoàn Astris Finance đồng quan điểm.
Các chuyên gia tài chính và các chuyên gia năng lượng quốc tế khuyến nghị, để huy động được nguồn vốn quốc tế cho các dự án điện độc lập, Việt Nam cần phải tuân thủ các yêu cầu và luật chơi quốc tế và dòng vốn quốc tế sẽ chỉ dịch chuyển về các quốc gia đáp ứng 3 tiêu chí: có quy mô thị trường đủ lớn; khả năng sinh lời ở mức hấp dẫn và rủi ro thấp.
Để tăng khả năng sinh lời và giảm rủi ro nhằm thu hút được dòng vốn quốc tế, ông Mic Kang, Phó giám đốc Bộ phận Tài chính dự án cơ sở hạ tầng của Moody’s Investors Service cho rằng, Việt Nam cần coi trọng vai trò của xếp hạng tín nhiệm quốc gia. Bởi, “xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam sẽ giúp Chính phủ, định chế tài chính và doanh nghiệp khi huy động vốn vay hoặc phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế có thể giảm được chi phí huy động vốn”.
Doanh nghiệp năng lượng lo bài toán vốn
Ngoài kênh trái phiếu, các nhà đầu tư dự án năng lượng tái tạo đang tính bài toán thu hút vốn ngoại thông qua chuyển nhượng cổ phần.
Ồ ạt huy động vốn trái phiếu
Xu hướng rất đáng quan tâm trong năm 2020 là hoạt động huy động vốn qua kênh phát hành trái phiếu cho các dự án năng lượng tái tạo được đẩy mạnh. Hàng chục nghìn tỷ đồng đã được nhiều chủ đầu tư dự án điện năng lượng tái tạo huy động thành công.
Cụ thể, nhóm công ty đầu tư các dự án năng lượng thuộc Tập đoàn Xuân Thiện đã huy động được hơn 13.000 tỷ đồng qua kênh trái phiếu trong giai đoạn từ cuối tháng 6 đến cuối tháng 8/2020.
Trong đó, nửa cuối tháng 8, các công ty thành viên của Xuân Thiện đầu tư vào cụm dự án điện mặt trời Xuân Thiện - Ea Súp gồm Ea Súp 1, 2 và 3 đã huy động hơn 4.900 tỷ đồng qua phát hành riêng lẻ. Hai công ty khác thuộc tập đoàn này là Xuân Thiện Thuận Bắc và Xuân Thiện Ninh Bình huy động được gần 3.300 tỷ đồng cho dự án điện mặt trời Xuân Thiện Thuận Bắc tại tỉnh Ninh Thuận.
Trước đó, hai công ty Xuân Thiện Đăk Lăk và Năng lượng Sơn La đã huy động được trên 2.440 tỷ đồng.
Tính cả đợt phát hành trái phiếu từ cuối tháng 6 của Ea Sup 5 với hơn 2.100 tỷ đồng và các đơn vị thành viên khác, nhóm công ty liên quan thuộc Tập đoàn Xuân Thiện đã huy động được hơn 13.000 tỷ đồng, kỳ hạn trái phiếu từ 18 tháng đến 12 năm.
Tập đoàn Trung Nam đã thực hiện suôn sẻ các thương vụ huy động vốn trái phiếu, giá trị huy động từ cuối năm 2019 đến nay đạt gần 6.000 tỷ đồng
Tập đoàn Trung Nam với sự hỗ trợ của Ngân hàng Quân đội (MBBank) đã thực hiện suôn sẻ các thương vụ huy động vốn trái phiếu, giá trị huy động từ cuối năm 2019 đến nay đạt gần 6.000 tỷ đồng, trong đó nửa đầu năm 2020 là hơn 4.000 tỷ đồng, trở thành một trong những tập đoàn huy động vốn lớn nhất trong đầu tư năng lượng tái tạo từ kênh trái phiếu.
Nhiều nhà đầu tư khác như Tập đoàn Hoành Sơn, hay nhóm công ty năng lượng của BCG Group huy động thành công từ hàng trăm tỷ đồng đến hàng nghìn tỷ đồng qua kênh trái phiếu.
Mới đây nhất, tân binh trong lĩnh vực đầu tư năng lượng tái tạo là Trường Thành Group sau khi hoàn tất niêm yết 135 triệu cổ phiếu trên sàn HOSE đã đặt mục tiêu tăng vốn điều lệ lên 1.600 tỷ đồng trong quý cuối năm 2020 thông qua chào bán 25 triệu cổ phần riêng lẻ cho nhà đầu tư chiến lược.
Ông Nguyễn Duy Hưng, Tổng giám đốc Trường Thành Group cũng kỳ vọng sẽ tiếp cận được dòng vốn lớn từ kênh phát hành trái phiếu cho kế hoạch phát triển 200 MW/năm từ năm 2022 trở đi.
Việc niêm yết cổ phiếu sẽ giúp Công ty kết nối với các nhà đầu tư, quỹ đầu tư và thực hiện phát hành trái phiếu để đa dạng nguồn vốn, giảm chi phí đầu tư dự án.
Theo đánh giá của các chuyên gia, thị trường trái phiếu doanh nghiệp có cuộc chạy đua huy động vốn trước ngày 1/9/2020, thời điểm Nghị định 81/2020-NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp có hiệu lực, với các điều kiện phát hành khắt khe hơn.
Tại Tọa đàm "Góp ý cơ chế, chính sách phát triển năng lượng tái tạo" do Tạp chí Nhà đầu tư vừa tổ chức, ông Phạm Như Ánh, thành viên Ban điều hành MBBank nhận định, Nghị định 81 quy định mỗi đợt phát hành cách nhau 6 tháng, trong khi các dự án điện gió phải thi công từ 2 - 3 năm, do đó các doanh nghiệp đầu tư dự án năng lượng tái tạo có thể gặp khó khăn trong việc đảm bảo nguồn vốn không bị gián đoạn nếu chỉ huy động vốn trái phiếu.
TS. Vũ Bằng, Thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Chính phủ cho rằng, Bộ Tài chính cần thúc đẩy thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp năng lượng tái tạo phát hành công cụ này. Chẳng hạn, các dự án chỉ cần ký được hợp đồng cho vay của ngân hàng thì doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu theo tiến độ vốn.
Tiếp cận vốn nước ngoài
Trong bối cảnh huy động vốn trái phiếu thời gian tới dự kiến kém thuận lợi và nguồn vốn tín dụng vẫn khó tiếp cận, chủ đầu tư các dự án năng lượng tái tạo đã và đang tìm kiếm nguồn huy động khác.
Ông Hồ Tá Tín, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn HBRE cho biết, Công ty đang triển khai các dự án điện gió tại Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
Thực tiễn đầu tư các dự án của doanh nghiệp gặp khó khăn khi tiếp cận vốn vay từ các ngân hàng trong nước, bởi hạn mức cho vay thấp và lãi suất cho vay cao, từ 10%/năm trở lên.
Đặc biệt, các ngân hàng yêu cầu tỷ lệ vốn tự có từ 30 - 40% là rất cao, khiến doanh nghiệp khó thu xếp tài chính cho dự án.
Trong khi đó, việc vay vốn từ ngân hàng nước ngoài có lãi suất thấp, khoảng 4 - 5%/năm, nhưng nhà đầu tư trong nước không dễ tiếp cận do yêu cầu phải có bảo lãnh Chính phủ.
Để đảm bảo hiệu quả và tiến độ của dự án, nhiều nhà đầu tư điện gió tính đến việc hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài dưới hình thức chuyển nhượng cổ phần, hoặc chuyển nhượng một phần dự án để tiếp cận nguồn vốn nước ngoài.
Hiện một số dự án điện gió ngoài khơi đang được nhà đầu tư nước ngoài quan tâm và sẵn sàng đầu tư từ 1,5 - 2 tỷ USD.
Hiện tại, HBRE hợp tác với nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước, trong đó có nhà đầu tư Thái Lan và Pháp thông qua hình thức chuyển nhượng cổ phần.
Công ty đã huy động được vốn ngoại vào 5 dự án điện gió với tổng công suất 1.000 MW, trong đó có dự án "Điện gió trên biển HBRE Vũng Tàu", công suất 500 MW, đây là dự án điện gió ngoài khơi đầu tiên tại khu vực Đông Nam Bộ, dự kiến sẽ đưa vào vận hành trong năm 2025.
Các nhà đầu tư nước ngoài có nguồn vốn dồi dào nên với hình thức hợp tác là cổ đông tham gia góp vốn cổ phần, việc phối kết hợp nguồn vốn giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu tư trong nước như vậy là phù hợp.
Dù vậy, để thu hút được nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp cần có dự án khả thi, hiệu quả đầu tư cao.
Tính toán một cách định lượng, ông Tín cho rằng, dự án điện gió có hiệu suất sinh lợi tối thiểu 15% mới hấp dẫn nhà đầu tư ngoại, tương đương suất đầu tư trên bờ trung bình dưới 1,5 triệu USD/MW, ngoài khơi dưới 2,5 triệu USD/MW.
"Trong trường hợp giá điện cố định (FIT) cho các dự án điện gió giảm thì tỷ suất hoàn vốn nội bộ của các dự án triển khai còn khoảng 12 - 13%, đây vẫn là tỷ lệ có thể chấp nhận được. Để đạt được hiệu suất sinh lợi này, khi cơ chế giá FIT kết thúc tính thì giá điện gió trên bờ khoảng 8 UScent/kWh vẫn có thể đầu tư, còn điện gió ngoài khơi giữ giá hiện nay là 9,8 UScent/kWh mới đảm bảo hiệu quả đầu tư", ông Tín nói.
Thực tế đã có doanh nghiệp chuyển nhượng một phần dự án năng lượng tái tạo cho nhà đầu tư nước ngoài
Thực tế đã có doanh nghiệp chuyển nhượng một phần dự án năng lượng tái tạo cho nhà đầu tư nước ngoài, nhưng ông Nguyễn Hoài Bắc, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty IQLink, đồng thời là Giám đốc Công ty cổ phần Điện mặt trời Sunseap Link Việt Nam vẫn băn khoăn về quyết định chấp thuận đầu tư của ủy ban nhân dân tỉnh sau khi cấp cho các doanh nghiệp có quy định, trong thời gian xây dựng không được chuyển nhượng hoặc bán cổ phần của dự án.
Theo ông Bắc, nếu doanh nghiệp có vấn đề về dòng vốn mà có nguồn tài trợ từ nhà đầu tư nước ngoài để mua cổ phần sẽ giúp giảm rủi ro, đồng thời đỡ gánh nặng cho doanh nghiệp.
"Cơ quan quản lý nên nghiên cứu lại chính sách để doanh nghiệp Việt Nam cần gọi vốn có thể chuyển nhượng một phần dự án. Đề nghị tháo gỡ vướng mắc này, mở cửa cho dòng vốn nước ngoài vào", ông Bắc nhấn mạnh.
Ông Phạm Minh Hùng, Phó vụ trưởng Vụ Kinh tế công nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Pháp luật hiện hành không có quy định hạn chế nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực năng lượng tái tạo. Hiện cũng đã có những quy định về việc chuyển nhượng dự án đầu tư, nhà đầu tư có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án cho nhà đầu tư khác. Tuy nhiên, chưa có quy định cụ thể về điều kiện tiếp cận trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, mà chỉ có dự án thuỷ điện.
Nâng chuẩn công ty đại chúng từ năm 2021 Từ năm 2021, tiêu chuẩn công ty đại chúng theo Luật Chứng khoán mới được nâng lên, nhưng công ty chỉ phải thực hiện nghĩa vụ sau khi được xác nhận tư cách công ty đại chúng. Nâng chuẩn để cải thiện chất lượng hàng hóa Luật Chứng khoán 2006 quy định, công ty đại chúng là doanh nghiệp đáp ứng 1 trong...