Doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ bứt phá mạnh tại Mỹ sau đại dịch Covid-19?
Mặc dù ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid 19, nhưng có thể thấy dệt may Việt Nam ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn ở thị trường may mặc Mỹ.
Mỹ là thị trường tiêu thụ hàng hóa dệt may lớn nhất thế giới. Năm 2019, hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường Mỹ đạt 111 tỉ USD, chiếm khoảng 10% thị phần toàn cầu. Mỹ cũng là khách hàng quan trọng nhất của dệt may Việt Nam khi chiếm gần một nửa tổng giá trị xuất khẩu.
Năm 2019, đại dịch Covid 19 bùng phát và lan mạnh tại Mỹ, các doanh nghiệp thời trang tại nước này đã bị ảnh hưởng nặng nề. Rất nhiều các doanh nghiệp thời trang lớn của Mỹ phải đệ đơn phá sản như J.Crew (doanh thu 2019 đạt 2.5 tỉ USD), Meiman Marcus (doanh thu 2019 đạt 4.9 tỉ USD), J.C Penney, Brook Brothers, RTW Retailwinds…Trong bối cảnh đó, rất nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam cũng lao đao khi tình trạng hủy đơn hàng, giãn đơn hàng, không thu được tiền…xảy ra thường xuyên hơn.
Hầu hết các doanh nghiệp dệt may trên sàn chứng khoán đều ghi nhận kết quả kinh doanh sụt giảm mạnh. Lũy kế 9 tháng 2020, lợi nhuận TNG giảm 26%, MSH giảm 54%, VGT giảm 65%, VGG giảm 76%, GMC giảm 84% so với cùng kỳ năm trước.
Tuy bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid 19, nhưng dệt may Việt Nam đang ngày càng chiếm thị phần lớn và đóng vai trò quan trọng ở thị trường Mỹ.
Xu hướng chuyển dịch các đơn hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam
Từ cuối năm 2018, Chiến tranh thương mại Mỹ – Trung Quốc đã giúp các hãng thời trang Mỹ dịch chuyển nhiều hơn các đơn hàng dệt may sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam. Năm 2019, giá trị hàng hóa dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ đạt 14,4 tỉ USD, tăng trưởng mạnh 11% so với năm 2018. Xu hướng này vẫn tiếp diễn kéo dài sang cả năm 2020. Mặc dù bị ảnh hưởng bởi dịch Covid 19 nhưng xuất khẩu dệt may Việt Nam vẫn giảm ít nhất trong số các quốc gia xuất khẩu dệt may chính sang Mỹ.
Lũy kế 9 tháng đầu năm 2020, giá trị dệt may Mỹ nhập khẩu toàn thế giới giảm 24,5% so với cùng kỳ năm trước thì nhập khẩu từ Việt Nam chỉ giảm 9,2%, trong khi, Trung Quốc giảm 38,4%, Bangladesh giảm 13,3%, Indonesia giảm 20%, Ấn độ giảm 22,7%.
Video đang HOT
Xu hướng gia tăng thị phần của dệt may Việt Nam tại Mỹ liên tục tăng từ năm 2015 đến nay. Tuy nhiên, nhờ có chiến tranh thương mại Mỹ Trung mà thị phần Việt Nam tăng mạnh trong năm 2019 và 2020 lên mức 20%, xấp xỉ Trung Quốc (23,4%) và vượt trội hơn hẳn so với quốc gia đứng thứ 3 là Bangladesh (8,4%).
Theo khảo sát gần đây của Hiệp hội thời trang Mỹ, 95% các doanh nghiệp thời trang tại Mỹ đang chọn Việt Nam là nơi cung cấp hàng hóa chính cho họ. Tỷ lệ này cũng tăng mạnh so với mức 83% của năm 2019.
Cũng theo khảo sát này, 40% các doanh nghiệp thời trang Mỹ sẽ tiếp tục tăng nhập khẩu từ Việt Nam trong tương lai và 45% sẽ tiếp tục giữ nguyên như hiện tại. Trong khi đó 75% trả lời là sẽ giảm nhập khẩu với Trung Quốc trong thời gian tới và 25% sẽ giữ nguyên như hiện tại.
Xu hướng các hãng thời trang hiện có sự đa dạng hóa nguồn cung hơn, không quá tập trung vào một quốc gia để hạn chế rủi ro. Xu hướng “Trung Quốc cộng Việt Nam cộng các quốc gia khác” ngày càng phổ biến, trong đó Trung Quốc và Việt Nam sẽ là chủ đạo, chiếm từ 40%-60% giá trị đơn hàng. Điều này cho thấy vị thế lớn của dệt may Việt Nam với các công ty thời trang Mỹ.
Các thế mạnh của dệt may Việt Nam
Ngành dệt may đang sử dụng gần 4 triệu lao động, chiếm khoảng 8% lực lượng lao động của Việt Nam. Đây cũng là ngành mang lại nhiều ngoại tệ thứ 3 sau xuất khẩu điện thoại, linh kiện điện tử và máy móc, 33 tỉ USD (2019). Quy mô ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam hiện đang đứng thứ 3 thế giới, chỉ sau Trung Quốc và Bangladesh. Ở thị trường Mỹ, Việt Nam chỉ đứng thứ 2, xấp xỉ ngang với Trung Quốc.
Xu hướng dịch chuyển đơn hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam vốn đã âm thầm diễn ra khi trình độ tay nghề công nhân Việt Nam được nâng dần, chi phí nhân công chưa quá cao, tốc độ giao hàng được cải thiện nhờ hệ thống logistic hoàn thiện hơn, khả năng đáp ứng đơn hàng lớn cũng tốt hơn…Chiến tranh thương mại Mỹ – Trung chỉ giúp cho quá trình dịch chuyển này diễn ra với tốc độ nhanh hơn. Và trong xu hướng dịch chuyển các đơn hàng ra khỏi Trung Quốc, Việt Nam có vẻ đang là quốc gia được hưởng lợi nhiều nhất.
Theo đánh giá của Hiệp hội thời trang Mỹ, dệt may Việt Nam đang có khá nhiều lợi thế với các quốc gia đối thủ.
Hiệp hội thời trang Mỹ chấm điểm trên 5 phương diện, bao gồm: Tốc độ giao hàng, Chi phí nhân công, Năng lực và khả năng linh hoạt, Tuân thủ quyền con người và xã hội, Rủi ro ô nhiễm môi trường. Thang điểm từ 1 đến 5, càng cao càng tốt và càng thấp càng tệ. Cụ thể, mức điểm trên 4 là trên mức trung bình, từ 3 đến 3,9 là ở mức trung bình, thang điểm dưới 3 là dưới mức trung bình.
Theo bảng trên, Việt Nam đạt 16 điểm trên 25 điểm tối đa, chỉ sau Trung Quốc với 17 điểm và hơn hẳn so với các quốc gia còn lại như Indonesia 14 điểm, Bangladesh 13,5 điểm, Ấn độ 13,5 điểm hay Campuchia với 13,5.
Ngoài ra, yếu tố vị trí địa lý gần Trung Quốc cũng là một lợi thế lớn của dệt may Việt Nam. Trung Quốc là quốc gia cung cấp hầu hết nguyên vật liệu dệt may cho toàn thế giới. Gần Trung Quốc cũng là gần nguồn cung cấp nguyên phụ liệu, góp phần giảm chi phí logistic và thời gian giao hàng.
Mặc dù ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19, nhưng có thể thấy, dệt may Việt Nam ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn ở thị trường may mặc Mỹ. Theo quan điểm của người viết, khi dịch bệnh qua đi, kinh tế phục hồi, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ trở lại mạnh mẽ.
Thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ của Việt Nam giảm 1,7%, đạt 58,2 tỷ USD cuối tháng 6/2020
Việc cải thiện tâm lý của các nhà đầu tư và điều kiện tài chính toàn cầu đã tạo ra sự gia tăng hết sức cần thiết cho các thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ tại khu vực Đông Á mới nổi, bất chấp những nguy cơ từ đại dịch Covid-19.
Đó là đánh giá được Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đưa ra trong ấn bản mới nhất của Báo cáo Giám sát trái phiếu châu Á vừa công bố.
Chuyên gia Kinh tế trưởng của ADB, ông Yasuyuki Sawada, nhận định: "Các chính phủ trong khu vực đã rất linh hoạt khi ứng phó với tác động của đại dịch Covid-19 thông qua một loạt giải pháp chính sách, bao gồm nới lỏng tiền tệ và kích thích tài chính. Điều hết sức quan trọng là các chính phủ và ngân hàng trung ương cần duy trì lập trường chính sách tiền tệ mang tính thích ứng và bảo đảm đủ thanh khoản để hỗ trợ sự ổn định tài chính và phục hồi kinh tế".
Khu vực Đông Á mới nổi bao gồm Trung Quốc, Hồng Kông (Trung Quốc), Indonesia, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam.
Trong giai đoạn từ ngày 15/6 tới ngày 11/9, lợi suất trái phiếu chính phủ tại phần lớn các thị trường Đông Á mới nổi đã giảm sút trong bối cảnh các chính sách tiền tệ thích ứng được áp dụng và tăng trưởng yếu trên khắp khu vực. Trong khi đó, việc cải thiện tâm lý đã dẫn tới sự gia tăng trong các thị trường vốn cổ phần của khu vực và thu hẹp chênh lệch tín dụng, với hầu hết các đồng tiền trong khu vực đều mạnh lên so với đồng USD.
Trái phiếu bằng đồng nội tệ đang lưu hành trên các thị trường Đông Á mới nổi đạt 17.200 tỷ USD vào cuối tháng 6, tăng 5,0% so với tháng 3/2020 và cao hơn 15,5% so với tháng 6/2019.
Tính theo tỷ lệ phần trăm của tổng sản phẩm quốc nội khu vực, trái phiếu bằng đồng nội tệ đang lưu hành của khu vực Đông Á mới nổi đã đạt tới 91,1% vào cuối tháng 6, so với mức 87,8% hồi tháng 3, chủ yếu là do lượng tiền lớn cần thiết để chống lại đại dịch và giảm thiểu tác động của nó.
Lượng phát hành trái phiếu trong khu vực đạt 2.000 tỷ USD trong quý II, tăng 21,3% so với quý I năm nay. Trung Quốc vẫn là nơi có thị trường trái phiếu lớn nhất của khu vực, chiếm tới 76,6% tổng lượng trái phiếu của khu vực tính tới cuối tháng 6.
Thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ của Việt Nam đã giảm 1,7% tại thời điểm cuối tháng 6 năm nay, đạt 58,2 tỷ USD, sau khi có được mức tăng trưởng hằng quý lành mạnh là 10,4% trong quý I. Điều này chủ yếu là do khối lượng trái phiếu đang lưu hành thấp hơn trong khu vực chính phủ, ngay cả khi lượng trái phiếu doanh nghiệp gia tăng.
Tính tới cuối tháng 6 năm 2020, trái phiếu chính phủ Việt Nam đã thu hẹp 7,8% so với quý trước, đạt mức 50,1 tỷ USD, chiếm 86,2% tổng lượng trái phiếu toàn quốc. Tuy nhiên, trong quý II, trái phiếu doanh nghiệp đã tăng mạnh ở mức 65,6% so với quý trước, đạt 8 tỷ USD. Nếu tính theo năm, mức tăng trưởng trái phiếu doanh nghiệp đạt 76% vào cuối tháng 6 năm 2020.
Báo cáo cho biết, lượng trái phiếu chính phủ đang lưu hành của khu vực đã đạt 10.500 tỷ USD vào cuối tháng 6, bằng 60,8% tổng giá trị trái phiếu của khu vực. Trong khi đó, trái phiếu doanh nghiệp đạt 6.700 tỷ USD.
Rủi ro tiêu cực lớn nhất đối với sự ổn định tài chính là đại dịch Covid-19 kéo dài và tồi tệ hơn, có thể làm suy yếu triển vọng kinh tế của khu vực. ADB dự báo mức giảm 0,7% cho châu Á đang phát triển trong năm 2020. Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm khả năng bất ổn xã hội do tác động kinh tế của đại dịch, cũng như những căng thẳng tiếp tục giữa Trung Quốc và Mỹ.
Giá USD hôm nay 25/9 Tại các ngân hàng thương mại, sáng nay giá USD biến động nhẹ và giá đồng Nhân dân tệ (NDT) giảm nhẹ. Tỷ giá trung tâm tăng 5 đồng. Ảnh: TTXVN Tỷ giá ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại Tại các ngân hàng thương mại, sáng nay giá USD biến động nhẹ và giá đồng Nhân dân tệ (NDT) giảm nhẹ....