Dinh dưỡng hợp lý cho trẻ thời tiết nắng nóng
Dinh dưỡng hợp lý cho trẻ trong thời tiết nắng nóng luôn là một vấn đề khiến cho các bà mẹ quan tâm.
Ảnh minh họa
Chế độ ăn
Nhóm thực phẩm cần
Theo chia sẻ của bác sĩ Nguyễn Thị Hồng Đào, Khoa Nhi, Bệnh viện quận 11 (TP.HCM), mùa nóng, thời tiết oi bức nên dinh dưỡng cho bé cần các thực phẩm tươi mát để giúp giải nhiệt cho cơ thể. Cho bé ăn nhiều hơn ngày thường nhóm thực phẩm có tính giải nhiệt như: rau dền, rau muống, bí… chúng giúp mang lại cảm giác mát mẻ, đồng thời cung cấp nhiều vitamin, bổ sung chất xơ, rất tốt cho hệ tiêu hóa của bé.
Các thực phẩm như thịt, cá, tôm, cua, trứng, sữa, sò, hàu, hến, đậu đỗ… sẽ cung cấp cho bé chất đạm và nhiều dưỡng chất quan trọng như kẽm, sắt, canxi… Trái cây tươi, sữa chua, hành, tỏi, bông cải xanh, cà chua, rau gia vị (tía tô, kinh giới, thì là…) cũng đóng góp cho hệ miễn dịch, sự ngon miệng và giúp trẻ phát triển cơ xương và góp rất tốt cho hệ miễn dịch của trẻ.
Mùa nóng là mùa có nhiều loại trái cây và rau quả như dưa chuột, cà chua, rau diếp, đậu lăng … giàu vitamin C, carotene và muối khoáng. Bữa ăn của bé cần chia nhỏ và có nhiều canh rau, ít dầu mỡ… bên cạnh đó các bà mẹ có thể cho bé ăn bổ sung bằng những bữa ăn bổ mát như: chè hạt sen, sữa, sữa chua, bánh flan…
Sữa sẽ khiến trẻ ngủ ngon và sâu hơn nhờ chứa nhiều dưỡng chất, đặc biệt là canxi, tryptophan, taurin… có tác dụng ổn định thần kinh giúp trẻ thư giãn và dễ ngủ.
Các chuyên gia cho rằng phải đa dạng chế độ ăn uống của trẻ với đủ các loại trái cây, rau, đậu, ngũ cốc, trứng, thịt, sữa và các thực phẩm khác trong bữa ăn hàng ngày để duy trì cân bằng dinh dưỡng.
Cho trẻ ăn thức ăn nhạt, dễ tiêu hóa và ít dầu mỡ…
Nhóm thực phẩm cần hạn chế
Tránh cho bé uống trà, cà phê. Hạn chế cho trẻ ăn nhiều thức ăn nhanh, đồ chiên rán, nhiều chất béo như gà rán, khoai tây chiên, thịt mỡ, xúc xích, đồ hộp, lạp xưởng… vì vừa khó tiêu, vừa nhiều năng lượng đòi hỏi phải cung cấp nhiều nước hơn để chuyển hóa. Hạn chế cho ăn nhiều đồ ngọt, kể cả kem, bánh, sữa đặc có đường…
Thức ăn chế biến xong cần cho trẻ ăn ngay trong vòng 30 phút. Không cho trẻ ăn thức ăn sống, thức ăn hay sữa sau khi pha để ngoài nhiệt độ thường hơn 2 giờ, hay nước đá không tinh khiết, nước mía, rau má bán lòng lề đường (để lâu, nhiều ruồi nhặng, bụi bặm) để tránh nguy cơ bị tiêu chảy do ngộ độc thực phẩm. Hạn chế cho trẻ đồ uống hay kem lạnh thường xuyên để tránh viêm đường hô hấp.
Không nên cho trẻ ăn thức ăn để đông lạnh. Trong những ngày nắng nóng, nhiều bậc cha mẹ thường chuẩn bị trước bữa ăn trưa cho trẻ và trẻ chỉ cần để làm nóng thức ăn trong lò vi sóng khi ăn. Điều này rất tốt cho trẻ, nhưng món ăn để đông lạnh không được khuyến khích. Do vậy, các bậc cha mẹ nên chú ý khi chuẩn bị thức ăn cho trẻ em, bữa ăn trưa dành riêng cho trẻ nên được thực hiện vào buổi sáng và được giữ tươi trong tủ lạnh, không nên chuẩn bị sẵn thức ăn để lâu ngày trong tủ lạnh.
Video đang HOT
Thời tiết nắng nóng khiến cho trẻ luôn mệt mỏi, thèm đồ lạnh… các bậc cha mẹ thường xuyên nhắc nhở trẻ nên bỏ nước lạnh hoặc thực phẩm ra ngoài tủ lạnh trước khi ăn 5 đến 10 phút. Đặc biệt là không nên ăn thức ăn quá nóng hoặc quá lạnh.
Theo các chuyên gia, với đồ ăn vặt chỉ nên cho trẻ ăn với một lượng vừa phải và không nên thay thế các bữa ăn chính. Việc ăn vặt của trẻ trước bữa ăn sẽ làm giảm sự thèm ăn trong các bữa ăn chính. Do vậy, cha mẹ không nên cất trữ quá nhiều đồ ăn nhẹ trong nhà.
Nước uống
Theo khuyến cáo của của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), lượng nước cung cấp hàng ngày cho cơ thể thay đổi tùy theo từng khu vực và theo từng lứa tuổi. Ở Việt Nam, là một nước nhiệt đới, mùa nắng nóng lượng mồ hôi thải ra lớn nên lượng nước mất đi mỗi ngày ra ngoài cơ thể nhiều. Mỗi ngày trẻ em cần uống khoảng 50 – 60ml nước cho mỗi kilôgam trọng lượng cơ thể, ăn them nhiều canh rau. Tăng nhu cầu nước uống khi trẻ ra mồ hôi quá nhiều sau khi hoạt động thể lực, vận động hoặc mới di chuyển dưới trời nắng. Cho bé uống đủ nước, khoảng 100ml/kg cân nặng/ngày.
Các thức uống vừa cung cấp đủ nước vừa có giá trị dinh dưỡng như: sữa tươi, sữa đậu nành, sữa chua uống, sinh tố, nước ép trái cây. Ngoài ra, còn có nước giải khát như: nước lọc, trà, nước khoáng, nước suối, nước tinh khiết và nước mát được chế biến theo cách dân gian như: nước sâm, rau má…
Trẻ nhỏ thường hiếu động nên thường ra nhiều mồ hôi, ham chơi và quên uống nước, gây thiếu nước. Vì vậy, các phụ huynh hay nhắc con uống nước nhiều lần trong ngày có thể chọn nước lọc, nước rau má, nước sâm mát (không đường) hay các loại nước trái cây rau củ ép tự nhiên không thêm đường, kể cả sữa, sữa chua để bổ sung nước.
Bên cạnh đó cần cho bé thường xuyên ăn các loại trái cây nhiều nước như dưa hấu, bưởi, cam, quýt, lê, táo, thanh long, mận, dâu vào các bữa phụ. Các loại trái cây và nước ép trái cây, rau xanh và nước ép rau củ, ngoài việc cung cấp nhiều nước giúp thanh nhiệt, còn cung cấp cho trẻ nhiều loại vitamin và khoáng chất giúp tăng cường hệ miễn dịch, bảo vệ trẻ phòng chống bệnh. Nên tập cho trẻ ăn luôn cả xác rau củ quả hoặc xay sinh tố thay vì chỉ ép lấy nước để bổ sung thêm chất xơ cho con, giúp con tránh được táo bón.
Không nên uống quá nhiều đồ uống lạnh hoặc kem.
Tuy nhiên, không nên cho trẻ uống nhiều nước và đồ ăn lạnh trước khi ăn vì sẽ tạo cảm giác no bé sẽ không ăn hay bỏ bữa. Trong những ngày nắng nóng, các bé thường thích uống nước lạnh. Các chuyên gia tư vấn, uống nhiều đồ uống lạnh và kem sẽ khiến nồng độ glucose tăng cao, có thể gây ảnh hưởng đến chế độ ăn uống bình thường của trẻ.
Những điều cần lưu ý
- Khi thời tiết trở nên nóng nực, trẻ thường dễ nổi mụn, rôm sảy, mẩn ngứa…. Vì thế, các bậc cha mẹ cần cho trẻ uống thêm các loại nước mát và bổ dưỡng, đồng thời tăng sức đề kháng cho cơ thể của trẻ, phòng chống các bệnh lý dễ xảy ra vào mùa nắng nóng. Không cho bé ăn nhiều kem hoặc kem còn đông cứng vì sẽ làm niêm mạc miệng bé bị tổn thương, dẫn đến bé mắc những bệnh về đường hô hấp.
- Bên cạnh đó, bạn cần chú ý những yếu tố về thời tiết vì thời tiết nóng có thể ảnh hưởng đến dinh dưỡng của bé. Bé dễ mắc bệnh tiêu chảy do thức ăn ôi, thiu, do vi khuẩn dễ sinh sôi nảy nở trong môi trường nóng ẩm cũng như nước đá không tinh khiết.
Vì vậy, trong thời ki nắng nóng nên cho bé ăn đồ ăn chế biến trong ngày, khi chế biến xong nên ăn trong 30 phút, không nên để thức ăn bên ngoài quá 2 tiếng vì thời tiết này sẽ dễ ôi thiêu. Tăng cường thêm nước lọc, các loại nước ép và rau quả cho bé vào các bữa phụ.
Theo doanhnghiepvn.vn
Béo phì: Nguyên nhân và các ứng phó
Béo phì là tình trạng quá nhiều mỡ tích trữ trong cơ thể dẫn tới tình trạng lượng mỡ lớn hơn lượng cơ-xương. Mỡ này là hậu quả của tình trạng dư thừa dinh dưỡng gây ra.
Mỡ sẽ tích trữ ở mọi nơi trong cơ thể (dưới da, các khoang, ổ trong cơ thể đến các cơ quan nội tạng, kể cả mạch máu)... và gây ra nhiều hệ luỵ cho sức khoẻ.
Có nhiều tiêu chuẩn để xác định béo phì, nhưng có một tiêu chuẩn phổ thông nhất và được nhiều người công nhận nhất, đó là tiêu chuẩn chẩn đoán xác định béo phì của Tổ chức Y tế thế giới (WHO). Theo đó, một người được xác định béo phì khi họ có chỉ số BMI 30 (kg/m2).
Chỉ số BMI được tính theo công thức: khối lượng cơ thể tính bằng kg/bình phương chiều cao cơ thể tính bằng m.
Ngoài sử dụng chỉ số BMI, một số quốc gia và bác sỹ lâm sàng sử dụng một vài chỉ số khác để chẩn đoán béo phì. Có thể kể ra đây như sau:
Tỷ lệ lượng mỡ toàn cơ thể, theo chỉ số này, nếu một người nam giới có tỷ lệ lượng mỡ toàn cơ thể 25% đối với nam và 33% đối với nữ thì được gọi là béo phì, nhưng việc tính ra chính xác lượng mỡ toàn cơ thể cũng không đơn giản.
Số đo vòng eo, theo chỉ số này nếu một người nam giới có số đo vòng eo ngang qua rốn từ 102cm trở lên với nam và 88cm trở lên với nữ thì người đó có nguy cơ cao bị béo phì hoặc là có nguy cơ cao mắc bệnh tật do béo phì gây ra.
Chiều dày lớp mỡ dưới da, theo đó nếu lớp mỡ dưới da càng dày thì người đó càng có nguy cơ béo phì.
Một bệnh phổ biến
Ban đầu, béo phì xuất hiện nhiều ở các nước châu Âu bởi đó là một châu lục giàu có và thịnh vượng. Người ta thấy, vào thế kỷ thứ XIX, xuất hiện một bức tranh với hai mảng màu đối lập hoàn toàn: một bên là tầng lớp quý tộc với phổ người béo chiếm ưu thế với dạng chữ A, chữ O, tức là to bụng hoặc to mông, còn một bên là tầng lớp nô lệ, bần cùng với người hình gậy, hình que. Người ta những tưởng béo phì chỉ là một khái niệm và một hội chứng dinh dưỡng xuất hiện lốm đốm. Nhưng sau này, béo phì xuất hiện ngày càng nhiều và có mặt ở khắp toàn cầu. Nó không còn là đặc sản của các nước châu Âu và phương Tây.
Béo phì gia tăng ở các nước đang phát triển như Việt Nam.
Bản đồ nhận dạng béo phì đã có mặt ở hầu hết các quốc gia. Và các con số thì cứ ngày một tăng lên.
Theo báo cáo thống kê gần đây nhất cho thấy, nếu lấy mốc năm 1980 để tính, toàn thế giới có khoảng 857 triệu người bị thừa cân béo phì, đến năm 2013 (cách đây 3 năm), con số này đã tăng vọt lên 2,1 tỉ người, gần hơn 1/3 dân số toàn thế giới.
Các quốc gia điểm mặt béo phì có khoảng 180 nước trong số 220 quốc gia và lãnh thổ trên toàn thế giới. Một số quốc gia điển hình như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Braxin, Mexico, Hy Lạp, Đức, Pakistan, Indonesia. Nhóm quốc gia này đã dâng hiến cho con số tăng vọt trên 50% thị phần người thừa cân và béo phì. Tổng số 50% còn lại sống ở các quốc gia còn lại trên thế giới. Chỉ riêng Hoa Kỳ (quốc gia có vẻ đứng đầu về mọi khía cạnh), số lượng người thừa cân và béo phì đã chiếm 13%. Hai quốc gia khổng lồ là Trung Quốc và Ấn Độ cùng dắt tay nhau cộng vào được tròn 15% người thừa cân và béo phì trên toàn thế giới.
Béo phì vẫn được coi là vấn nạn của các nước giàu và các nước phát triển. Song có lẽ y học can thiệp đã đến độ phát triển nên họ đã khống chế béo phì tốt hơn. Và điều khiến cả thế giới ngạc nhiên, hiện nay béo phì lại là vấn đề của các nước nghèo và các nước đang phát triển. Có tới 62% người thừa cân và béo phì sống ở các nước đang phát triển đã chứng minh trục béo phì bị xoay đảo ngược.
Đó là chuyện của thế giới, trở lại trong nước, Việt Nam cũng không nằm ngoại lệ với vấn nạn này của y học. Có lẽ, hình ảnh béo phì của Việt Nam đang gần tương tự như hình ảnh béo phì của châu Âu thế kỷ trước nữa. Theo đó có một tỷ lệ dân cư thì thừa thãi dinh dưỡng tới mức béo phì và một tỷ lệ khác thì vẫn còn dinh dưỡng nghèo nàn. Bên cạnh tỷ lệ suy dinh dưỡng còn nhiều vấn đề phải xem xét, tỷ lệ béo phì ở Việt Nam cũng chiếm tới 25% dân số trên toàn lãnh thổ hình chữ S (con số Cục Y tế Dự phòng công bố năm 2014). Với tỷ lệ 25%, các cơ quan đảm trách y tế sẽ còn nhiều việc phải làm để có được một cơ cấu dân số khỏe mạnh.
Nguyên nhân béo phì
Nguyên nhân cơ bản nhất đó là tình trạng thừa thãi dinh dưỡng và sử dụng dinh dưỡng không hợp lý. Dinh dưỡng, theo quan niệm hàng ngày, đó là thức ăn đưa vào. Nếu bạn ăn quá nhiều thức ăn, quá nhiều thực phẩm, bạn sẽ bị béo vì nó sẽ được tích tụ lại nếu bạn không sử dụng hết. Điều này được củng cố khi béo phì đa phần xuất hiện ở những nhà giàu và nơi thành thị.
Dinh dưỡng, theo quan niệm khoa học, là giá trị năng lượng của bữa ăn mà nó đem lại. Giá trị này được tính theo đơn vị năng lượng là kcal. Một ngày, một người Việt chỉ cần ăn trung bình khoảng 1800 - 2000 kcal. Nếu bạn ăn mỗi ngày thừa ra chừng 200 kcal thì phần thừa này sẽ tích tụ thành mỡ và sẽ béo. Ví dụ, chỉ cần ăn thừa chừng 100 gam thịt gà bạn đã tích đủ 200 kcal thừa thãi.
Nguyên nhân thứ hai, người ta thường hay nhắc tới đó là tình trạng quá tĩnh tại. Tĩnh tại tới mức, cơ thể bạn không cần sử dụng năng lượng nhiều và con số năng lượng gần chạm tới mức thấp nhất, mức giá trị cơ sở của sự sống. Khi đó, mặc dù bạn ăn không nhiều nhưng vẫn thừa cân, béo phì bởi bạn vẫn bị thừa nhu cầu so với bản thân bạn. Lấy ví dụ, một người lao động văn phòng sẽ cần khoảng 2000 kcal để đủ làm việc. Nhưng nếu một người khác ăn vẫn 2000 kcal, một mức ăn trung bình và không nhiều, nhưng do anh ta quá tĩnh tại, chỉ tiêu hao hết 1700 kcal trong ngày, vô tình, ăn không nhiều mà vẫn thừa 300 kcal. Mỗi ngày tích tụ 300 kcal và dần dần thành đám mỡ.
Nguyên nhân thứ ba, người ta cho rằng gen chịu trách nhiệm. Điều này lý giải tại sao có một số người đa phần ăn mì tôm (một loại thức ăn vẫn được coi là nghèo dinh dưỡng) nhưng vẫn béo lên trông thấy. Đó là bởi chính gen của họ. Gen của họ quyết định tới số lượng và thành phần men tiêu hóa. Gen đã quyết định tới khả năng hấp thu và khả năng chuyển hóa. Những người chỉ ăn hết sức đơn giản mà vẫn béo có thể là do bộ máy tiêu hóa quá hoàn hảo, ăn vào nhưng hấp thu gần hết và con đường chuyển hóa đa phần hướng mỡ. Cho nên, dù ăn hết sức đơn giản nhưng họ vẫn trông giống như cỗ xe lu. Đây là điều làm cho họ bối rối. Người ta tìm thấy khoảng 56 gen khác nhau chịu trách nhiệm gây ra tình trạng này. Điển hình như gen: ACE, ADIPOQ, ADRB2, GNB3, LEP, LIPE, MC4R, PLIN, RETN, UCP1.
Gen là một nguyên nhân không thể thay đổi được, nhưng hai nguyên nhân còn lại, chúng ta hoàn toàn có thể thay đổi được. Chỉ cần bạn ăn bớt đi và hoạt động nhiều lên, bạn sẽ kiểm soát được béo phì.
Các xét nghiệm bổ trợ
Chẩn đoán chính xác béo phì là điều không khó, chỉ cần tính BMI là bạn đã tự có thể biết mình thừa cân hay béo phì. Việc xét nghiệm không phải để khẳng định lại chẩn đoán mà là để tiên lượng và xác định nguy cơ bệnh tật tới đâu. Bởi béo phì liên quan tới nhiều loại bệnh khác nhau như làm xuất hiện bệnh mới, tăng nặng hoặc có chiều hướng phức tạp hóa quá trình điều trị.
Một số xét nghiệm sau được coi là cần thiết: sinh hóa máu (xét nghiệm tình trạng mỡ máu), xét nghiệm nước tiểu (tình trạng tổn thương vi mạch máu thận), đường máu (tình trạng đái tháo đường), điện tim (tình trạng tổn thương tim), siêu âm gan, sinh hóa gan (đánh giá chức năng gan), homron tuyến giáp (xác định sự tăng chuyển hóa), đo bề dày lớp mỡ dưới da, đo độ hấp thụ sóng radio 2 năng lượng, phân tích điện trở sinh học, siêu âm da...
Can thiệp béo phì như thế nào?
Cho đến nay, chúng ta có 3 nhóm biện pháp cơ bản để điều trị thừa cân, béo phì: dinh dưỡng, nội khoa và ngoại khoa.
Biện pháp dinh dưỡng: Là nhóm biện pháp tìm ra chế độ dinh dưỡng tối ưu để họ giảm cân và tiến tới duy trì mức cân nặng bình thường. Thực ra nguyên tắc của biện pháp này không có gì cao siêu. Nó chỉ tính toán để giảm giá trị năng lượng đưa vào, giảm thức ăn có nhiều chất béo (gọi là thức ăn cao năng). Khi làm được điều này, điều trị sẽ thành công. Cái khó ở đây là tính toán độ giảm năng lượng là bao nhiêu kcal, vì giảm ít thì không có giá trị điều trị, giảm nhiều quá thì mệt không làm được việc và sẽ bị ăn bù vào lúc khác, hóa béo hơn.
Biện pháp điều trị nội khoa: Là nhóm biện pháp dùng thuốc. Dùng thuốc để chữa béo phì đã đạt được nhiều bước tiến khá tiến bộ. Trên nguyên tắc, béo là do thừa mỡ, uống thuốc vào, lẽ ra phải đánh vào phần mỡ này, nhưng hiện nay chưa có thuốc nào làm được. Các thuốc mới chỉ tác động vào khâu làm giảm ăn, chán ăn, chê ăn để cơ thể tự "bóc tách" phần mỡ trong cơ thể tự mình làm gầy đi và cần thời gian nên số ngày uống thuốc không hề ngắn. Các thuốc đa phần tác động vào trung tâm thèm ăn ở trên não bộ và tác động vào đường ruột để cản trở sự hấp thu. Một số thuốc điển hình bao gồm: orlistat, lorcaserin, liraglutide, topiramat, thuốc ức chế neuropeptid YY...
Biện pháp ngoại khoa: Là các biện pháp phẫu thuật để chữa béo. Phẫu thuật ở đây không phải là cắt bỏ lớp mỡ béo đi mà phẫu thuật để thay đổi khả năng của cơ quan tiêu hóa. Từ đó làm cơ thể tự nghèo dinh dưỡng và buộc phải tự tiêu lấy phần mỡ béo mà sử dụng. Vì thế, không phải trước khi bước vào phòng mổ bạn béo sồ sề nhưng sau 2 tiếng phẫu thuật, bạn bước ra với thân hình thon mảnh và gầy guộc. Phẫu thuật chữa béo không tác động trực diện vào phần mỡ béo, do vậy, để trả về trạng thái cơ thể như bình thường cũng phải mất một thời gian sau đó. Có một số biện pháp phẫu thuật sau: bắc cầu dạ dày hình chữ Y, chít hẹp dạ dày, cắt bán phần dạ dày, bắc cầu nối tá tụy.
BS. Phúc Hưng
Theo suckhoedoisong.vn
Cách đối phó những cơn đau đầu trong thời tiết nắng nóng Đau đầu do thời tiết chỉ sau vài giờ là khỏi nhưng lại gây nhiều phiền toái cho cơ thể. Để đối phó những cơn đau đầu trong thời tiết nắng nóng, bạn có thể tham khảo lời khuyên của chuyên gia dưới đây. Thời tiết nóng làm nhiều người mất ngủ khiến trí não bị thiếu dưỡng khí làm cho tinh thần...