Điếc đột ngột: Tĩnh lặng bất thường của âm thanh cuộc sống
Điếc đột ngột và sự suy giảm thính lực theo thời gian hoàn toàn không giống nhau. Nếu phát hiện sớm, tìm đúng nguyên nhân để có hướng điều trị kịp thời, thì triệu chứng này có thể xử lý được.
Điếc đột ngột là một cấp cứu thuộc nội khoa tai- mũi- họng. Bệnh có thể để lại những di chứng nặng nề cho bệnh nhân như nghe kém, chóng mặt, ù tai…, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, làm việc, học tập của bệnh nhân, nếu như không được phát hiện và điều trị sớm.
Bài toán khó trong xác định nguyên nhân
Mức độ điếc có nhiều tính chất rất khác nhau, có thể xẩy ra một bên tai hoặc cả hai tai, mức độ từ nghe kém nhẹ (trên 30 dB so với mức bình thường ), đến điếc nặng hoàn toàn trên ít nhất ba tần số liên tiếp, diễn tiến trong 3 ngày liên tiếp. Hiện vẫn chưa rõ chính xác nguyên nhân gì gây ra mất thính lực đột ngột (trên 90% chưa xác định được nguyên nhân). Do đó, việc xác định chính xác căn nguyên để có phương án điều trị phù hợp cũng gặp nhiều khó khăn.
Ở một chiều hướng khác, suy giảm thính lực -một hiện tượng sinh lý hầu khó tránh khỏi, là hệ quả của sự suy giảm chức năng của cơ thể. Cụ thể là sự suy giảm bộ máy thính giác, mức độ nặng nhẹ tùy thuộc ở mỗi cá nhân; nhưng nếu xảy ra quá sớm thì trở thành bệnh lý.
Suy giảm thính lực là “điếc tiếp nhận” đơn thuần; không kèm theo chóng mặt, nếu có ù tai thì cũng nhẹ. Hiện tượng suy giảm thính giác có thể bắt đầu 20 – 30 t.uổi, nhưng cũng có thể gây phiền hà, khó chịu từ t.uổi 50 trở đi.
Điếc đột ngột không phải là một vấn đề quá phổ biến. Theo các thống kê, tỷ lệ mắc trung bình của bệnh nằm ở khoảng 5-20/100.000 người mắc. Nếu tính tương đương, ở nước ta sẽ có từ 5.000 – 18.000 người găp phải tình trạng này. Bệnh thường gặp ở độ t.uổi 50-60 ở nam và nữ. Một số nghiên cứu cho thấy có sự cao hơn ở nữ giới. Đa phần tình trạng điếc đột ngột có thể tự bình phục (47%-70%), thường xảy ra ở một bên tai (2% bệnh nhân xảy ra ở cả hai tai).
Có nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra tình trạng điếc đột ngột. Thường được chia làm thành 4 nguyên nhân chủ yếu như: chèn ép mạch m.áu, vỡ các màng trong ốc tai, nhiễm siêu vi, bệnh tự miễn. Dựa trên sự liên hệ với cấu trúc ốc tai, các nguyên nhân gây điếc đột ngột được chia làm các nguyên nhân tại ốc tai và các nguyên nhân sau ốc tai:
Nguyên nhân tại ốc tai: Có thể gây ra tình trạng điếc đột ngột do nhiễm virus, vi khuẩn như HIV, giang mai, quai bị, zona, sởi, cúm…; do tổn thương như co thắt mạch m.áu, huyết khối, xuất huyết trong tai,..; các nguyên nhân bệnh về m.áu như hồng cầu hình liềm, thiếu m.áu thiếu sắt…; do việc sử dụng một số loại thuốc như kháng sinh, aspirin…; các rối loạn về chuyển hóa như đái tháo đường, suy tuyến giáp… hay các bệnh tự miễn như lupus ban đỏ hệ thống…
Nguyên nhân sau ốc tai: Các nguyên nhân sau ốc tai phổ biến như u não, viêm não, u bao dây thần kinh t.iền đình, ung thư di căn…
Một số triệu chứng thường thấy ở bệnh nhân có liên quan đến tình trạng điếc đột ngột như:
- Nghe kém tiếp nhận một bên hay cả hai bên tai.
- Ù tai: Xuất hiện ở 60% – 70% trường hợp bệnh nhân đến khám do điếc đột ngột, các triệu chứng ù tai kiểu tai trong khi bệnh nhân cảm nhận được các âm thanh như tiếng ve kêu, tiếng xay lúa, tiếng máy bay… Ù tai có thể xuất hiện vài ngày trước khi có tình trạng nghe kém, có thể biến mất hoặc còn sau khi tình trạng nghe kém được hồi phục.
- Chóng mặt: 20% – 40%.
- Đầy nặng tai: 15% – 30%.
- Viêm nhiễm đường hô hấp trên do virus: 20% – 40%.
Cần điều trị sớm
Có nhiều nguyên nhân khác nhau gây nên tình trạng điếc đột ngột, cho nên việc tìm đúng nguyên nhân gây bệnh để điều trị đúng và kịp thời là vô cùng quan trọng. Bằng nhiều biện pháp khác nhau như thăm khám lâm sàng, điều tra t.iền sử bệnh, lịch sử dùng thuốc, chấn thương cũng như các biện pháp chẩn đoán hình ảnh, nội soi tai, thực hiện các xét nghiệm công thức m.áu, đông m.áu, MRI sọ não có tiêm thuốc cản từ… Bác sĩ điều trị cần nhanh chóng xác định chính xác nguyên nhân và có chỉ định điều trị phù hợp cho bệnh nhân.
Trong các trường hợp điếc đột ngột vô căn, corticoid đang được chấp nhận và sử dụng rộng rãi bằng đường toàn thân hay dùng tại chỗ. Tuy nhiên liệu pháp này thường không có hiệu quả hoặc hiệu quả kém nếu trường hợp điếc>90dB, liều điều trị được áp dụng là 1mg/Kg/ngày và được giảm liều dần trong 3 tuần. Việc sử dụng corticoid trên đường toàn thân có thể tiềm ẩn một số tác dụng không mong muốn như tăng đường huyết, tăng huyết áp, loét dạ dày, loãng xương, làm chậm lành vết thương, gây tăng cân và béo phì.
Trong những năm gần đây phương pháp corticoid chích xuyên nhĩ (tại chỗ) có thể giúp cải thiện sức nghe 50% trong các trường hợp sử dụng Desamethasone hoặc Methylprednisone, được sử dụng khi chống chỉ định sử dụng corticoid toàn thân, giúp nồng độ hoạt chất tại mô đích cao hơn. Có thể thực hiện trên bệnh nhân ngoại trú, áp dụng ở những trường hợp trễ (trong vòng 1 tháng), ít tác dụng phụ hơn so với trường hợp dùng đường toàn thân. Ngoài ra, một số phương pháp khác có thể sử dụng như oxy cao áp, thuốc kháng virus, lợi tiểu hoặc phẫu thuật trong các trường hợp rò ngoại dịch.
Một số trường hợp bệnh nhân không có khả năng phục hồi, cần có sự tư vấn để sự thay đổi lối sống, sinh hoạt phù hợp với tình trạng nghe kém. Họ sẽ được sử dụng máy trợ thính, tập các bài tập chống ù tai, chóng mặt; đo, kiểm tra thính lực định kỳ trong vòng 6 tháng.
Nghe chính là chức năng của ốc tai. Thông qua cơ chế tiếp nhận và chuỗi truyền tín hiệu được thực hiện bởi các cơ quan cấu trúc trong tai, các tín hiệu âm thanh được chuyển thành các tín hiệu xung thần kinh được phần ốc tai của thần kinh sọ VIII truyền về não cho ta nhận biết về âm thanh đã phát ra. Ốc tai được cung cấp m.áu bởi động mạch tiểu não trước dưới, do đó khi xuất hiện các tổn thương đến việc tuần hoàn m.áu đến ốc tai, có thể dẫn đến tình trạng tiếp nhận kém tiếp nhận.
Video đang HOT
Thỉnh thoảng bị đau ngực có nguy hiểm không?
Chúng ta thường nghĩ rằng đau ngực là dấu hiệu của cơn đau tim, tuy nhiên đau ngực không nhất thiết có nghĩa là bạn có vấn đề về tim.
Có rất nhiều thủ phạm tiềm ẩn khác gây nên cơn đau ngực như trào ngược hoặc đau ngực do gắng sức sau khi tập nặng. Cả hai đều khó chịu. Nhưng không nghiêm trọng như cơn đau tim.
Tuy nhiên, cần phải nói rõ, các bác sĩ tim mạch cho biết đau ngực là một dấu hiệu cảnh báo mà bạn không bao giờ nên bỏ qua. Bạn nên luôn tìm kiếm sự chăm sóc y tế nếu bị đau ngực.
Dưới đây là những lý d o nghiêm trọng và không quá nghiêm trọng khiến cơn đau ngực xuất hiện rồi biến mất, theo các chuyên gia tim mạch.
Các loại đau ngực
Đau ngực diễn ra theo nhiều mức độ từ nhức và đau âm ỉ đến đau nhói và dữ dội. Nó có thể khác nhau ở mỗi người, ngay cả khi nguyên nhân là giống nhau. Và loại đau hoặc cường độ đau không nhất thiết quyết định liệu đó là vấn đề ở tim hay một cái gì đó ít nghiêm trọng hơn. Trên thực tế, đôi khi cơn đau ngực không nghiêm trọng lắm như co thắt thực quản hoặc chấn thương cơ xương lại rất dữ dội, trong khi đau ngực liên quan đến tim có thể rất kín đáo.
Đau ngực ở phụ nữ
Đau ngực do trào ngược hoặc ho nhiều là giống nhau giữa phụ nữ và nam giới. Tuy nhiên, với cơn đau tim, phụ nữ có thể gặp một số triệu chứng "lạ" khác với những triệu chứng của nam giới.
Không giống như nam giới, phụ nữ ít bị đau ngực như một triệu chứng biểu hiện của cơn đau tim. Đôi khi các triệu chứng có thể khó thấy hơn đối với bệnh nhân nữ, chẳng hạn như chỉ tức nặng hoặc thậm chí chỉ khó thở. Các bệnh nhân nữ có nguy cơ mắc bệnh tim mạch cần nhận thức được tầm quan trọng của việc lắng nghe cơ thể, đặc biệt là khi tập thể dục và/hoặc khi có những hoạt động thể lực nặng khác.
Phụ nữ nên luôn tin vào bản năng của mình và thông báo cho bác sĩ khi có điều gì đó không ổn để có thể đ.ánh giá thêm. Phụ nữ có phần dễ có các triệu chứng khó thở, buồn nôn/nôn và đau lưng hoặc hàm khi bị cơn đau tim hơn nam giới.
Theo Hội Tim mạch Mỹ, dưới đây là những dấu hiệu của cơn đau tim. Hãy gọi cấp cứu và đến bệnh viện ngay lập tức:
- Cảm giác tức ngực khó chịu, bóp chặt, đầy hoặc đau ở giữa ngực, kéo dài hơn một vài phút, xuất hiện rồi tự hết.
- Đau hoặc khó chịu ở một hoặc cả hai cánh tay, lưng, cổ, hàm hoặc dạ dày
- Khó thở có hoặc không kèm theo khó chịu ở ngực
- Đổ mồ hôi lạnh, buồn nôn hoặc chóng mặt.
Đau ngực không liên quan đến tim
Có một số lý do khiến bạn cảm thấy đau ngực mà không liên quan đến vấn đề tim mạch. Có các cơ, mô liên kết, xương, da, phổi, thực quản, dạ dày và rất nhiều dây thần kinh ở vùng ngực, đó là lý do tại sao bạn thường liên tưởng cơn đau ngực với bệnh tim. Tuy nhiên, tim không được trang bị các dây thần kinh như nhiều bộ phận cơ thể khác.
Đau ngực không liên quan đến tim được gọi là đau quy chiếu (referred pain): Bạn cảm thấy đau ở một chỗ, nhưng căn nguyên gây đau lại ở một chỗ khác. Ví dụ như trào ngược thường được cảm thấy ở vùng ngực, nhưng cơn đau không xuất phát từ tim.
Công bằng mà nói, các nguyên nhân không do tim gây ra đau ngực phổ biến hơn nhiều so với các nguyên nhân do tim. Nhưng vấn đề là các triệu chứng như vậy đòi hỏi cả đ.ánh giá định tính và bệnh cảnh để hiểu rõ hơn về cách tìm hiểu chúng và đâu là nguyên nhân có thể xảy ra nhất.
Vì lý do đó, đừng mặc định rằng đau ngực không nghiêm trọng chỉ vì nó có thể không ở tim. Cho dù có ở tim hay không, bạn cũng nên đến gặp bác sĩ để được chẩn đoán và điều trị thích hợp càng sớm càng tốt.
Dưới đây là một số tình trạng đau ngực không liên quan đến tim:
Đau ngực do căng cơ
Bạn có thể cảm thấy đau ngực xuất hiện sau khi nâng tạ hoặc chấn thương ở vùng ngực. Các phương pháp điều trị thường bao gồm nghỉ ngơi, chườm đá/chườm nóng và thuốc giảm đau không kê đơn và/hoặc thuốc chống viêm (NSAID) để điều trị căng cơ. Tuy nhiên, chấn thương ở ngực và bất kỳ cơn đau ngực nào trong hoặc sau khi tập thể dục đều cần được đ.ánh giá y tế.
Co thắt thực quản
Nếu đã từng bị ợ chua hoặc trào ngược axit, bạn có thể đã quen với co thắt thực quản. Đó là cơn co thắt cơ gây đau xảy ra ở phần dưới thực quản. Đau có thể khác nhau, nhưng thường là đau nhói đột ngột. Nó có thể kéo dài trong vài phút hoặc vài giờ.
Bạn có thể thử một số biện pháp tại nhà để giảm ợ nóng, nhưng ợ nóng thường xuyên có thể là dấu hiệu của bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD), là tình trạng viêm thực quản. Thực quản là ống nối miệng với dạ dày. Đi khám bác sĩ để thảo luận về các triệu chứng để giảm bớt và ngăn ngừa tổn thương thực quản.
Viêm sụn sườn
Còn được gọi là viêm khớp ức sườn, đây là một biến thể của thoái hóa khớp. Kiểu đau có thể khác nhau, nhưng thường được mô tả là đau nhói, nhức hoặc tức nặng.
Và kiểu đau ngực này có xu hướng xuất hiện rồi tự hết vì nó thường được kích thích bởi cử động ở vùng ức - sườn.
Nghỉ ngơi, chườm lạnh, xông hơi và thuốc chống viêm không steroid (NSAID) như ibuprofen giúp giảm đau.
Như thường lệ, hãy gọi cho bác sĩ khi bị đau ngực. Ngay cả khi bạn đã được chẩn đoán là bị viêm khớp hoặc thoái hóa khớp, bác sĩ cũng cần biết đây có phải là cơn đau ngực mà bạn chưa từng gặp hay không.
Ho nhiều
Cảm lạnh thông thường hoặc bệnh gì đó nghiêm trọng hơn như viêm phổi, thường tạo ra chất nhầy và đờm, khiến bạn bị ho. Ho là cách cơ thể cố gắng làm sạch đờm và chất nhầy ở phổi, nhưng sau một vài ngày ho và thở gấp có thể khiến bạn đau ngực.
Điều trị cảm lạnh thông thường bao gồm các loại thuốc không kê đơn để giảm cảm lạnh, ho và giảm đau.
Cơn hoảng loạn
Thật khó để phân biệt giữa cơn hoảng loạn và cơn đau tim vì cả hai đều liên quan đến đau ngực và có các triệu chứng giống nhau. Nhưng đau ngực trong cơn hoảng loạn là khu trú và có thể xuất hiện rồi biến mất. Đau ngực trong cơn đau tim thường liên tục và tăng dần, và nó có thể lan từ ngực đến các vùng khác, chẳng hạn như một hoặc cả hai cánh tay, lưng, vai, bụng, cổ, cổ họng hoặc hàm. Tuy nhiên, hãy tìm sự chăm sóc y tế ngay lập tức để loại trừ cơn đau tim.
Thuyên tắc phổi
Đây là một tình trạng đe dọa tính mạng xảy ra khi có tắc nghẽn động mạch trong phổi, điển hình là do huyết khối. Các dấu hiệu đau hoặc sưng ở chân và đau ngực xuất hiện và tự hết khi gắng sức ban đầu có thể bị bỏ qua. Nhưng đây là một tình trạng cần được chăm sóc y tế khẩn cấp.
Các triệu chứng có thể rất khác nhau. Nhưng đau ngực có xu hướng đột ngột, dữ dội và đau nhói. Nó không do hoạt động thể chất gây ra và thường kéo dài quá vài phút. Tình trạng này cần phải nhập viện với các lựa chọn điều trị như thuốc làm loãng m.áu, liệu pháp tan huyết khối, mang tất ép và trong một số trường hợp phải phẫu thuật để cải thiện lưu lượng m.áu và giảm thiểu hình thành cục m.áu đông mới.
Bệnh zona
Nếu đã từng bị thủy đậu, bạn có thể bị bệnh zona. Virus gây thủy đậu có thể nằm im trong cơ thể bạn và tái hoạt động sau nhiều năm hoặc nhiều thập kỷ-mặc dù tiêm chủng thủy đậu có thể giảm nguy cơ. Người lớn khỏe mạnh nên tiêm chủng thủy đậu ở t.uổi 50 trở lên; bạn thường tiêm một liều sau đó là liều thứ hai từ 2 đến 6 tháng sau đó.
Zona phát triển ở những vùng nhất định trên cơ thể, phổ biến nhất là trên ngực và lưng. (Mặc dù bạn có thể bị zona ở bất cứ đâu, kể cả cánh tay hoặc mặt.) Da nhạy cảm khi chạm vào, có cảm giác châm chích hoặc ngứa ran. Một loạt mụn nước đau cuối cùng hình thành (thường ở một bên của cơ thể) và tình trạng này có thể dẫn đến các biến chứng lâu dài và đau dây thần kinh ở một số người.
Bệnh zona cũng có thể cảm thấy giống như đau ngực, và cần đi khám bác sĩ không chỉ để loại trừ tình trạng tim mà còn để được điều trị để làm dịu các triệu chứng nếu bạn bị bệnh zona.
Đau ngực liên quan đến tim
Đau ngực là một dấu hiệu cảnh báo, bất kể nó xảy ra như thế nào.
Khó chịu ở ngực xảy ra khi gắng sức và giảm khi nghỉ ngơi cần phải được đ.ánh giá y tế. Đau ngực xuất hiện khi nghỉ ngơi và kết hợp với các triệu chứng khác như khó thở, chóng mặt/choáng váng, buồn nôn, nôn hoặc tim đ.ập nhanh cần được đ.ánh giá y tế.
Dưới đây là một số tình trạng đau ngực liên quan đến tim:
Đau tim
Bạn có thể cho rằng cơn đau tim chỉ gây ra đau ngực đột ngột, nhưng không phải lúc nào cũng vậy.
Đau ngực không thường xuyên có thể là dấu hiệu của cơn đau tim. Sẽ cần phải đ.ánh giá kỹ lưỡng để xác định nguyên nhân gây ra các triệu chứng dựa trên t.iền sử, khám thực thể và xét nghiệm chẩn đoán.
Đừng trì hoãn việc tìm sự trợ giúp khi bị đau ngực từng cơn hoặc đột ngột. Gọi cấp cứu hoặc đến ngay bệnh viện.
Bóc tách động mạch chủ
Bóc tách động mạch chủ là một tình trạng hiếm gặp nhưng nguy hiểm tính mạng xảy ra khi lớp phủ bên trong của động mạch chủ bị bong ra, dẫn đến tách rời ba lớp của thành động mạch chủ. Tình trạng này có thể gây ra đau ngực từng cơn hoặc đau dữ dội như rách ngực thường lan ra vai và lưng. Nó thường xảy ra hơn với nam giới trong độ t.uổi từ 60 đến 80.
Một số nguyên nhân phổ biến bao gồm huyết áp cao, xơ cứng động mạch, khiếm khuyết van động mạch chủ, bệnh mô liên kết hoặc chấn thương ngực, như t.ai n.ạn xe hơi.
Bạn không thể thiếu quyết đoán. Gọi cấp cứu và đến bệnh viện ngay lập tức nếu thấy bị loại đau ngực này.
Đau thắt ngực
Đau thắt ngực là thuật ngữ được sử dụng để mô tả sự khó chịu ở ngực hoặc đau xảy ra khi tim không nhận được đủ lượng m.áu và oxy. Đau ngực liên quan đến tim khởi phát do hoạt động thể chất và giảm bớt khi nghỉ ngơi thường được gọi là đau thắt ngực ổn định.
Mặt khác, đau thắt ngực không ổn định là tình trạng đau liên quan đến tim xảy ra ngay cả khi bạn không tập thể dục hoặc gắng sức. Đau thắt ngực không ổn định có thể xảy ra khi mảng xơ vữa động mạch vành bị vỡ và gây ra đau ngực liên quan đến tim khi nghỉ ngơi, hoặc thậm chí là các triệu chứng không ổn định về cường độ.
Các triệu chứng khác bao gồm đau ngực lan lên cổ họng hoặc hàm, tức hoặc nặng ngực, đau lan xuống cánh tay và giữa các xương bả vai.
Đừng chần chừ trơcs bất kì loại đau thắt ngực có thể xảy ra. Nó có thể là dấu hiệu của cơn đau tim. Hãy gọi cấp cứu và đến bệnh viện.
Viêm cơ tim
Nói một cách đơn giản, viêm cơ tim là tình trạng cơ tim bị viêm, thường là do n.hiễm t.rùng. Nó cũng có thể do phản ứng thuốc hoặc bệnh lý viêm.
Nhiễm virus có thể gây viêm cơ tim. Ví dụ, Covid-19 được biết là gây viêm cơ tim ở một số bệnh nhân, và ngay cả những trường hợp Covid-19 tương đối nhẹ cũng có thể có dấu hiệu tổn thương tim.
Các triệu chứng bao gồm đau ngực hoặc đau xuất hiện và biến mất, lan đến hàm và cánh tay, mệt mỏi, tim đ.ập nhanh (viêm cơ tim có thể gây loạn nhịp tim), choáng váng, khó thở sau khi tập thể dục hoặc khi nằm, phù ở tay, chân, mắt cá chân và bàn chân, và đột ngột mất ý thức.
Dù già hay trẻ, nếu có những triệu chứng này, hãy đi khám ngay lập tức.
Viêm màng ngoài tim
Viêm màng ngoài tim là tình trạng viêm ở màng mô mỏng bao phủ quanh tim. Ngực có thể đau nhói và như dao đ.âm, xuất hiện rồi hết, và thay đổi theo vị trí.
Viêm màng ngoài tim có thể do nhiễm virus, vi khuẩn hoặc nấm và đôi khi xảy ra sau khi phẫu thuật tim hoặc đau tim. Bệnh có thể là cấp hoặc mãn tính, với dạng cấp tính khiến bạn cảm thấy như bị cơn đau tim. Viêm màng ngoài tim cấp tính thường không kéo dài, trong khi mãn tính phát triển theo thời gian và có thể mất nhiều thời gian hơn để điều trị.
Cả hai đều không tốt cho tim, vì cả hai đều làm rối loạn nhịp tim và chức năng bình thường của tim. Mặc dù chúng hiếm khi đe dọa đến tính mạng, nhưng không có cách nào để biết cơn đau ngực là do viêm màng ngoài tim hay do cơn đau tim.
Đừng lãng phí thời gian, hãy nhanh chóng đến bệnh viện.
Các bệnh ngoài da thường gặp ở người cao t.uổi Do t.uổi tác, sức đề kháng của người cao t.uổi bị suy giảm một cách đáng kể, da trở nên nhăn nheo, giảm tính đàn hồi, khô hơn, dẫn đến da của người cao t.uổi rất dễ mắc bệnh. Cùng với đó là sự thay đổi màu sắc cua da, mạch m.áu nhỏ bị vỡ gây xuất huyết trên da, mạch m.áu tắc...