Đề phòng lây lan bệnh bạch hầu
Theo thông tin từ hệ thống giám sát bệnh truyền nhiễm, tính đến ngày 25/11/2024, Việt Nam ghi nhận 9 trường hợp mắc bệnh bạch hầu trong đó 2 trường hợp t.ử von.g.
Năm 2023, có 57 trường hợp mắc và 7 trường hợp t.ử von.g. Mới đây, ngày 23/11 ghi nhận 1 trẻ t.ử von.g do bạch hầu tại Cao Bằng, Bộ Y tế yêu cầu xử lý triệt để.
Vaccine phòng bệnh bạch hầu nên được tiêm nhắc lại sau 10 năm để tăng hiệu quả bảo vệ.
Bạch hầu lây truyền nhanh và gây t.ử von.g cao
PGS.TS Đỗ Duy Cường, Giám đốc Trung tâm Bệnh Nhiệt đới, Bệnh viện Bạch Mai cho biết, bạch hầu là một bệnh nhiễ.m trùn.g mũi họng cấp tính, gây ra bởi một trực khuẩn ái khí, gram dương có tên là Corynebacterium tấ.n côn.g vào niêm mạc vùng mũi họng. Vi khuẩn này tạo nên một loại giả mạc trắng dai, bám chặt và lan nhanh ra bao phủ toàn bộ lớp niêm mạc của đường hô hấp. Độc tố do bạch hầu tiết ra tác động vào tim và các mô ngoại vi, gây nên tình trạng nhiễ.m trùn.g và nhiễm độc toàn thân.
Cũng theo PGS.TS Đỗ Duy Cường, bạch hầu thuộc danh mục bệnh truyền nhiễm nhóm B theo Luật phòng chống bệnh truyền nhiễm, có khả năng lây truyền nhanh và gây t.ử von.g cao, buộc phải cách ly. Bệnh gây ra các biểu hiện chủ yếu ở đường hô hấp như bạch hầu mũi, họng, thanh quản, khí phế quản… Trong đó, có khoảng 70% người mắc bạch hầu họng. Các thể ít gặp hơn là bạch hầu da, bạch hầu mắt.
Với thể bạch hầu họng, trong giai đoạn đầu, bệnh nhân có dấu hiệu sốt nhẹ, ho, khàn tiếng, họng đỏ, chán ăn. Sau 2-3 ngày, mặt sau hoặc 2 bên thành họng xuất hiện giả mạc màu trắng ngà, xám hoặc đen. Giả mạc dai, dính, dễ chả.y má.u và có thể phình to. Nếu không được điều trị, mảng giả mạc này sẽ phát triển và lan rộng lấp đường hô hấp gây khó thở, ngạt thở, suy hô hấp cho người bệnh. Bên cạnh đó, vi khuẩn bạch hầu có thể xâm nhập vào má.u gây ra các biến chứng nghiêm trọng như viêm cơ tim, tổn thương các dây thần kinh dẫn đến tê liệt, liệt cơ hoành dẫn đến t.ử von.g.
Về phương thức truyền bệnh, trực khuẩn bạch hầu có dạng hình que, sắp xếp thành đám, 2 đầu của trực khuẩn màu tím, giống hình chùy. Thông thường vi khuẩn bạch hầu nhân lên trên hoặc gần bề mặt của màng nhầy của cổ họng. Do đó, bạch hầu lây chủ yếu qua đường dịch tiết. Vi khuẩn bạch hầu lây nhiễm dễ dàng qua tiếp xúc với các giọt bắ.n chứa vi khuẩn trong không khí khi người nhiễm ho, hắt hơi hoặc nói chuyện.
Khi một người bị nhiễm bệnh hắt hơi hoặc ho sẽ phát ra những giọt nước có chứa mầm bệnh, những người ở gần đó có thể hít phải vi khuẩn bạch hầu. Theo các chuyên gia, đó là lây truyền trực tiếp. Lây truyền gián tiếp là thông qua vật dụng cá nhân chứa mầm bệnh. Một số trường hợp mắc bệnh bạch hầu từ việc chưa làm sạch các vật dụng mà người nhiễm bệnh đã sử dụng từ cốc uống nước chưa rửa của người bị nhiễm bệnh hoặc tiếp xúc với các giấy ăn mà người bệnh đã sử dụng.
Thời kỳ ủ bệnh thường từ 2 đến 5 ngày. Biểu hiện lâm sàng chủ yếu có sốt, ho, đau họng, hạch góc hàm sưng đau (cổ bạnh), tình trạng nhiễ.m trùn.g, nhiễm độc toàn thân, có giả mạc màu trắng xám, dai, dính ở amidal hoặc thành sau họng. Theo các chuyên gia y tế, có hai nguyên nhân gây t.ử von.g ở bệnh nhân bạch hầu đó là độc tố tiết ra từ vi khuẩn bạch hầu tấ.n côn.g vào các tế bào vật chủ, ngăn cản sự tổng hợp chuỗi Protein và gây chế.t tế bào; giả mạc vùng họng bít lấp đường thở.
Còn theo TS.BS Lê Quốc Hùng, Trưởng khoa Khoa Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Chợ Rẫy, bệnh bạch hầu có khả năng gây ra dịch nhưng khác với các loại dịch do virus gây ra, bệnh này do vi khuẩn gây ra. Bệnh có nhiều thể bệnh như bạch hầu mũi, họng, thanh quản, da… nhưng nguy hiểm nhất là ở thể hạch hầu hầu họng và thanh quản do có thể gây ra hoại tử, phù nề đường thở dẫn tới suy hô hấp. Ngoài ra, bệnh cũng có khả năng dẫn đến các biến chứng nặng như viêm cơ tim, viêm đa dây thần kinh, tổn thương thận cấp…và tỷ lệ t.ử von.g khoảng từ 5% đến 40%.
Video đang HOT
Về trường hợp t.ử von.g ở Cao Bằng mới đây, bà Vương Thị Tuyên – Phó Giám đốc Sở Y tế Cao Bằng cho biết, sau khi có thông tin chính thức về trường hợp bệnh nhi 11 tuổ.i (trú tại xóm Khau Noong, xã Thạch Lâm, huyện Bảo Lâm, Cao Bằng) t.ử von.g do bệnh bạch hầu, Sở Y tế Cao Bằng đã khẩn trương điều tra bệnh sử của bệnh nhân, đồng thời thực hiện các biện pháp khoanh vùng, phòng bệnh, lập danh sách 108 trường hợp tiếp xúc gần với bệnh nhi, lấy 8 mẫu bệnh phẩm của học sinh gửi Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương để xét nghiệm (chưa có kết quả); đồng thời khoanh vùng, cho học sinh uống thuố.c kháng sinh điều trị dự phòng. Đoàn công tác của Bộ Y tế do PGS.TS Trần Như Dương – Phó Viện trưởng Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương làm Trưởng đoàn, đã đến giám sát hỗ trợ, điều tra dịch tễ tình hình bệnh tại địa bàn xảy ra vụ việc.
Đã có vaccine và kháng sinh đặc hiệu phòng và điều trị bạch hầu
Theo TS Hoàng Minh Đức, Cục trưởng Cục Y tế dự phòng, dù số ca mắc bạch hầu vẫn ghi nhận rải rác tại nhiều địa phương nhưng đây chưa phải là vấn đề phức tạp. Bệnh bạch hầu không phải là bệnh mới. Hiện nay, vaccine bạch hầu đã được sử dụng trong Chương trình tiêm chủng mở rộng (tiêm miễn phí) ở nước ta từ năm 1985. Do đó đã tạo được miễn dịch rộng rãi trong cộng đồng và đã làm giảm số mắc hàng trăm lần so với thời điểm năm 1983 với khoảng 3.500 ca. Bệnh đã có vaccine và kháng sinh đặc hiệu để phòng và điều trị. Sau tiêm vaccine liều cơ bản, miễn dịch có thể kéo dài được vài năm song thường giảm dần theo thời gian nên cần được tiêm nhắc lại.
Những năm gần đây, cả nước chỉ ghi nhận các ca bệnh rải rác tại các nơi có tỷ lệ tiêm chủng chưa đạt được 100% đối tượng tiêm. Để phòng ngừa dịch bệnh bạch hầu, BS.CKI Bạch Thị Chính – Giám đốc Y khoa, Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC khuyến cáo người dân nên tiêm vaccine phòng bệnh đầy đủ, đúng lịch để đảm bảo miễn dịch phòng bệnh hiệu quả nhất. Tỷ lệ bảo vệ của vaccine lên đến 97%. Cơ thể chỉ cần 2 – 3 tuần sau khi tiêm đủ liều để sản sinh miễn dịch với bệnh.
Cụ thể, sau khi hoàn tất lịch tiêm chủng vaccine 5 trong 1 hoặc 6 trong 1 trong 2 năm đầu đời (vào lúc 2, 3, 4 và 18 tháng), trẻ cần tiêm nhắc một mũi vaccine có thành phần bạch hầu vào lúc 4-6 tuổ.i và 9-15 tuổ.i. Người lớn cần tiêm nhắc vaccine có thành phần bạch hầu 10 năm/lần. Đặc biệt, các đối tượng phụ nữ mang thai, người từ 50 tuổ.i trở lên, người lớn có bệnh mạn tính ở phổi, tim mạch, thận… là các đối tượng có nguy cơ t.ử von.g cao hơn khi mắc bạch hầu, cần rà soát lịch tiêm để bổ sung kịp thời. Với thai phụ, vaccine được tiêm trong 3 tháng giữa và 3 tháng cuối thai kỳ ngoài bảo vệ mẹ còn giúp truyền kháng thể bảo vệ bé trong những tháng đầu đời trước khi đến tuổ.i tiêm chủng.
Ngoài ra, người không rõ lịch sử tiêm ngừa cần bổ sung vaccine bạch hầu trong thời gian sớm nhất. Tùy tiề.n sử tiêm chủng, bác sĩ sẽ chỉ định lịch tiêm phù hợp từng người.
Cách dùng tía tô có lợi cho sức khỏe
Trong dân gian thường lưu truyền về nước lá tía tô có rất nhiều công dụng tốt, giúp hỗ trợ cải thiện sức khỏe.
Tuy nhiên, tía tô là một vị thuố.c nam, do đó cần sử dụng đúng cách.
1. Tính vị quy kinh của tía tô
Tía tô có tên khoa học là Herba Perillae, thuộc họ Hoa môi.
Tía tô là dạng cây thân thảo, chiều cao trung bình từ 0,5 - 1m. Thân cây màu tím đậm. Lá tía tô mọc đối xứng, mép có răng cưa đều nhau. Bên trên mặt lá có màu xanh, phía dưới lá có màu tím tía, một số lá tía tô có cả mặt trên và mặt dưới lá đều có màu tím hoặc xanh.
Bộ phận dùng làm thuố.c:
Lá tía tô (Folium Perillae): Vị cay, tính ôn; vào kinh phế, tỳ. Có tác dụng tán hàn (trừ lạnh), giải biểu (làm ra mồ hôi), hành khí, an thai, giải độc cá cua.
Hạt tía tô gọi là tô tử (Semen Perillae): Vị cay, tính ôn; vào kinh phế; có tác dụng hạ khí, trừ đờm, giảm ho.
Cành tía tô gọi là tô ngạnh (Caulis Perillae), có tác dụng lý khí (điều trị khí nghịch hoặc khí trệ).
Tía tô có vị cay, tính ấm. Quy kinh phế, tỳ. Thuộc nhóm thuố.c phát tán phong hàn - tân ôn giải biểu.
Tía tô có nhiều công dụng với sức khỏe.
2. Tác dụng của tía tô
Tía tô có thể dùng trong các trường hợp sau:
Cảm mạo phong hàn: Với các triệu chứng như sợ lạnh, sốt nhẹ, đau đầu, đau mình mẩy, ngạt mũi, chảy nước mũi, khản tiếng...Chữa ho, lom đờm.Giải độc do ngộ độc cua cá.Chữa viêm tuyến vú.
Liều dùng: 6-12g.
Không nên sử dụng nước tía tô kéo dài.
3. Không sử dụng tía tô kéo dài
Mặc dù, tía tô có rất nhiều công dụng tốt để chữa bệnh, tuy nhiên, dưới góc nhìn của Đông y, không nên dùng tía tô trong thời gian dài. Vì tía tô có thể khiến các tình trạng sau trở nặng hơn: Ra nhiều mồ hôi, ra nhiều mồ hôi trộm, đại tiện lỏng... dẫn đến rối loạn điện giải trong cơ thể.
Bên cạnh đó, trong lá tía tô có chứa nhiều acid oxalic. Nếu dùng nhiều cơ thể sẽ tích tụ acid oxalic gây suy thận, sỏi thận.
4. Những trường hợp không nên dùng tía tô
Mặc dù tía tô rất tốt cho sức khỏe, tuy nhiên những trường hợp sau không nên dùng tía tô:
- Người đang bị rối loạn đường tiêu hóa, đi ngoài phân lỏng: Những người đang gặp các tình trạng này mà dùng tía tô có thể khiến tình trạng bệnh trở nặng. Do lá tía tô có tác dụng kích thích nhu động ruột, hành khí ở trung tiêu.
Hơn nữa, việc đi ngoài kéo dài, có thể gây mất cân bằng điện giải trong cơ thể, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe. Vì thế, cần thận trọng trước khi sử dụng lá tía tô. Cần khai thác kĩ bệnh sử, tiề.n sử của người sử dụng trước khi dùng lá tía tô để chữa bệnh.
Lá tía tô - Một loại rau gia vị hàng ngày có tiềm năng trong phòng chống SARS-CoV-2
- Sau khi dùng tía tô, cơ thể ra mồ hôi liên tục không ngưng: Những người gặp trường hợp này dù đã ở nơi thoáng mát, thì cần dừng sử dụng tía tô ngay.
Tía tô thuộc nhóm thuố.c giải biểu, giúp cơ thể ra mồ hôi để trị bệnh, đưa tà khí - nguyên nhân gây bệnh, ra ngoài cơ thể bằng con đường mồ hôi, giúp bệnh không đi sâu vào trong cơ thể hay gọi cách khác là vào trong lý.
Theo sinh lý bình thường, cơ thể sẽ ra mồ hôi sau đó ngưng, chúng ta sẽ cảm thấy thoải mái hơn, bệnh dần dần lui. Nhưng nếu dùng tía tô mà ra mồ hôi không ngừng, cảm thấy mệt mỏi, đau đầu, chóng mặt, chuột rút... thì nên dừng uống nước lá tía tô lại, đến ngay cơ sở y tế gần nhất để thăm khám kịp thời.
- Phụ nữ sau khi sinh đẻ: Cơ thể phụ nữ sau sinh, khí huyết hao tổn, hơn nữa, vị tía tô nói riêng và các vị thuố.c nhóm giải biểu nói chung sẽ gây thương huyết. Với người khí huyết kém, dùng tía tô lại càng khiến cơ thể bạc nhược. Vì vậy phụ nữ mới sinh đẻ xong không nên sử dụng tía tô.
Cấp tốc chống lây nhiễm chéo sau trường hợp t.ử von.g vì bệnh sởi Theo Bộ Y tế, từ đầu năm 2024 đến nay, số ca sởi dương tính cao hơn 111 lần so với cùng kỳ năm 2023. Tại tỉnh Đồng Nai vừa ghi nhận b.é tra.i 3 tuổ.i tử vong do nghi sởi biến chứng, nâng tổng số t.ử von.g lên 6 trường hợp từ đầu năm đến nay. Dịch sởi bùng phát vào năm...