“Đặt lên bàn cân” Covid-19 và những đại dịch từng hoành hành trong lịch sử
Trước Covid-19 thì SARS, Ebola, H1N1 và xa hơn là cúm Tây Ban Nha cũng từng là những dịch bệnh đã gieo rắc nỗi sợ trên toàn cầu.
Đại dịch cúm Tây Ban Nha 1918 là dịch cúm mùa c.hết chóc nhất tính đến thời điểm hiện tại, trong lịch sử loài người. Theo thống kê, vào thời điểm dịch hoành hành, nó đã lây nhiễm cho 1/3 dân số thế giới.
Đại dịch cúm Tây Ban Nha gây ra bởi 1 chủng virus cúm mới chủ yếu tấn công vào những người ở độ t.uổi dưới 40. Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất chính là nguyên nhân chủ chốt khiến đại dịch này bùng phát mạnh, khi mà những người lính mang mầm bệnh đã phát tán chúng đi toàn cõi châu Âu. Loại virus gây nên dịch cúm Tây Ban Nha sẽ gây n.hiễm t.rùng phổi và dẫn đến tình trạng viêm phổi ở bệnh nhân, và họ có thể c.hết chỉ sau vài ngày.
Khi dịch cúm Tây Ban Nha bùng phát, giới khoa học chỉ có rất ít thông tin về loại virus đã gây nên căn bệnh này. Thậm chí, mãi đến những năm 30 của thế kỷ trước, các chuyên gia mới có thể quan sát được hình thái của mầm bệnh dưới kính hiển vi. Chính vì vậy, vào thời điểm đại dịch này càn quét trên toàn thế giới, không một loại vắc-xin hay thuốc kháng virus nào được chế ra.
Hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS) là căn bệnh do một loại virus thuộc họ corona gây ra. Các thành viên trong họ corona gây ra nhiều loại bệnh trên động vật có vú và chim, từ viêm ruột non ở bò và lợn; viêm đường hô hấp ở gà cho đến các bệnh đường hô hấp có thể gây t.ử v.ong ở người như: Hội chứng hô hấp Trung Đông, SARS và ngay ở thời điểm hiện tại là Covid-19.
Tên “coronavirus” có nguồn gốc từ tiếng Latin: “corona”, có nghĩa là vương miện hoặc hào quang. Tên gọi này xuất phát từ hình thái đặc trưng của chúng khi được quan sát dưới kính hiển vi điện tử, với một rìa lớn, tạo thành một hình ảnh như vương miện hoàng gia. Các thành viên thuộc họ corona có dạng hình cầu với đường kính xấp xỉ 125 nm.
Dịch SARS bùng phát tại Trung Quốc sau đó lan rộng ra thế giới. Theo thống kê, tỉ lệ t.ử v.ong của dịch SARS cao hơn Covid-19 (thống kê ở thời điểm hiện tại). Tuy nhiên, vì có số ca mắc cao gấp nhiều lần nên số người t.ử v.ong do Covid-19 đã vượt SARS. Công tác truy vết và phát hiện những trường hợp mắc SARS đơn giản hơn so với Covid-19, bởi bệnh nhân hầu như đều có triệu chứng nặng chỉ sau 1 thời gian ngắn.
Ebola do virus Ebola gây ra và là một trong những dịch bệnh c.hết chóc nhất mà con người biết đến. Theo thống kê, 50% số người mắc bệnh đã t.ử v.ong. Tuy nhiên, vì người mắc Ebola hầu như chỉ có thể thể lây bệnh thông qua dịch cơ thể như mồ hôi, m.áu, vào giai đoạn cuối của bệnh, nên khả năng lây lan của nó không thể sánh bằng Covid-19.
Thêm vào đó, các triệu chứng của người mắc Ebola là rất nặng, nên lực lượng y tế có thể dễ dàng phát hiện người mắc Ebola để kịp thời cách ly, điều trị.
Vào thời điểm vừa bùng phát năm 2009, dịch cúm H1N1 trở thành một nỗi lo sợ lớn trên toàn cầu, bởi khi đó chúng ta vẫn chưa có bất kì loại vắc xin nào để chủng ngừa căn bệnh này. Virus cúm A/H1N1 có tốc độ lây lan nhanh từ người này sang người khác, từ 1 ngày trước khi các triệu chứng phát triển đến 7 ngày sau khi mắc bệnh. Điểm khác biệt giữa virus cúm A/H1N1 với virus cúm mùa thông thường là khả năng tấn công hàng rào, vào sâu bên trong các tế bào phổi và gây ra biến chứng viêm phổi, nghiêm trọng có thể dẫn đến t.ử v.ong.
Virus SARS-CoV-2 là mầm bệnh gây ra Covid-19. Đây cũng là một loại virus thuộc họ corona. Covid-19 bùng phát từ thành phố Vũ Hán, Trung Quốc vào cuối năm 2019, đến nay dịch bệnh này đã trở thành một vấn đề toàn cầu với hơn 5,7 triệu người mắc, trong đó hơn 350 ngàn trường hợp t.ử v.ong. Ở Việt Nam, tính đến 28/5 đã ghi nhận 327 ca mắc Covid-19, trong đó 278 ca đã bình phục và chưa có trường hợp nào t.ử v.ong.
Người mắc Covid-19 sẽ sinh các bệnh liên quan đến đường hô hấp. Các triệu chứng biểu hiện của căn bệnh này bao gồm: chảy nước mũi, đau họng, đau đầu, ho, sốt… Bệnh nhân sẽ bị viêm đường hô hấp cấp tính dẫn đến viêm phổi và suy đường thở. Khi 2 phổi tổn thương toàn bộ, bệnh nhân sẽ không có khả năng trao đổi oxy, dẫn đến não bị tổn thương, suy đa tạng và bệnh nhân sẽ t.ử v.ong.
Hiểu đúng về virus lây từ động vật sang người, nhà dịch tễ học chỉ ra 3 sai lầm mà mọi người hay có
Bệnh có thể lây truyền qua các loài trung gian, không nhất thiết là phải tiếp xúc với động vật hoang dã.
Khi số ca nhiễm COVID-19 trên toàn cầu vượt qua con số 2 triệu người, thật khó có thể chấp nhận rằng virus SARS-CoV-2 đã nhảy từ động vật sang người và ban đầu chỉ lây nhiễm một người duy nhất.
Chúng ta không bao giờ có thể quay ngược thời gian để tìm ra chính xác nơi nào hoặc người đầu tiên nào đã nhiễm COVID-19. Nhưng chúng ta biết virus nhảy từ động vật sang người vốn là điểm khởi đầu cho những dịch bệnh, từ cúm, HIV cho đến Ebola, SARS và bây giờ là COVID-19.
Một trong số chúng, chẳng hạn như bệnh dại, chỉ gây ra những đợt bùng phát lẻ tẻ. Những căn bệnh này có tỷ lệ t.ử v.ong cao nhưng sẽ thường tự biến mất sau khi làm c.hết phần lớn vật chủ mà chúng lây nhiễm.
Một số căn bệnh khác sẽ lây lan rộng trên toàn cầu và trở thành đại dịch. Một số chủng virus động vật sẽ liên tục đột biến và lây nhiễm lại cho con người, tạo nên các dịch bệnh lặp đi lặp lại, chẳng hạn như cúm.
Và cũng có những chủng virus được coi là " bất tử", khi chúng không thể bị đ.ánh bại và vẫn là một gánh nặng thường nhật đối với con người, lấy ví dụ điển hình nhất là HIV.
Vậy chủng SARS-CoV-2 đang gây ra đại dịch COVID-19 sẽ thuộc vào nhóm nào? Các nhà khoa học cho biết nó rất giống với SARS-CoV, chủng virus đã gây ra đại dịch viêm đường hô hấp cấp tính SARS năm 2003. SARS đã bị tuyệt chủng sau khi gây t.ử v.ong cho gần 10% những người nhiễm nó.
Nhưng với COVID-19, các nhà khoa học cho biết chủng virus này đã thông minh hơn khi chỉ làm c.hết khoảng 1-2% những người nhiễm bệnh. Một số bệnh nhân nhiễm SARS-CoV-2 còn không có triệu chứng, vì vậy, có khả năng nó sẽ ở lại với chúng ta và lưu hành vĩnh viễn giống virus cúm.
Dù thế nào đi chăng nữa, các nhà dịch tễ học dự đoán rằng làn sóng virus tràn từ động vật sang người sẽ vẫn chưa dừng lại. Các chủng virus, được gọi là virus zoonotic sẽ còn tiếp tục đột biến để lây nhiễm chúng ta.
Với quá trình đô thị hóa, xâm chiếm môi trường sống của động vật và khai thác những vật nuôi để làm thức ăn hàng ngày, con người đang tạo ra ngày càng nhiều cơ hội cho dịch bệnh. Giữa bối cảnh đó, sẽ rất quan trọng để mỗi người dân chúng ta trang bị những kiến thức cần thiết và lọc bỏ hiểu lầm về những căn bệnh zoonotic này.
Olivier Restif,một giảng viên dịch tễ học tại Đại học Cambridgesẽ nói cho bạn biết đâu là những gì khoa học biết về những căn bệnh lây từ động vật sang người:
1. Thịt động vật hoang dã và những khu chợ ẩm ướt
Tiếp xúc gần gũi với động vật hoang dã thường được cho là điều kiện cần khiến các dịch bệnh có nguồn gốc từ động vật bùng phát, chẳng hạn như Ebola hoặc COVID-19.
Các hoạt động của con người như săn b.ắn, mổ thịt và buôn bán thịt động vật hoang dã có nguy cơ cao đặt chúng ta vào nguy cơ tiếp xúc với mầm bệnh, nhưng chúng ta không biết xác xuất lây lan từ những tiếp xúc ấy là bao nhiêu?
Ở một số quốc gia Châu Phi và Châu Á, dơi là loài động vật có nguy cơ lây truyền virus nhất sang cho con người. Một số những con dơi có thể nặng hơn 300g và chúng sống thành đàn.
Hàng ngàn con dơi có thể cùng đậu trên một cây lớn (và một hang động có thể chứa nửa triệu con dơi). Do đó, những người săn dơi có nguy cơ nhiễm bệnh rất lớn, mặc dù có rất ít bằng chứng cho thấy chính những người thợ săn có thể là nguồn gốc của dịch Ebola trong quá khứ.
Ở một số quốc gia, truyền thống tiêu thụ động vật sống khiến chúng được bày bán công khai ở các khu chợ ẩm ướt. Đó là nơi có khả năng trung chuyển những virus zoonotic từ rừng vào thị trấn.
Quần thể dơi tại một hang động ở Myanmar
Tuy nhiên, các khảo sát ở Trung Quốc và Việt Nam đã chỉ ra rằng thịt động vật hoang dã chủ yếu được ăn trong các nhà hàng, và thịt đó chủ yếu lại là từ lợn rừng, dê, hươu và chim được nuôi - chứ không phải săn bắt giống như những gì xảy ra ở Châu Âu.
Đối với những con dơi được bán với số lượng hàng chục ngàn con ở Ghana, chúng đã c.hết, bị phát hiện và hun khói trước khi đến được các quầy hàng ở chợ. Do đó, nguy cơ lây nhiễm virus cho người tiêu dùng là rất thấp.
2. Trung gian truyền bệnh
Những con đường lây truyền bệnh zoonoctic phổ biến hơn không yêu cầu bạn phải tiếp xúc trực tiếp với động vật hoang dã. Nhiều căn bệnh mới nổi thực ra đã được truyền qua côn trùng, đóng vai trò là loài trung gian mang mầm bệnh giữa những vật chủ.
Ví dụ, bệnh Lyme đây lây lan trên người ở Bắc Mỹ và Châu Âu trong 30 năm qua, thực ra có nguồn gốc từ động vật có vú hoang dã. Nhưng chúng đã lây sang người nhờ những con bọ ve.
Mặc dù sự gia tăng của căn bệnh thường được gán cho hoạt động săn b.ắn hươu hoang dã. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cho biết sự gia tăng đột biến của các loài thú có vú nhỏ, khi những loài thú lớn hoang dã là kẻ săn mồi tự nhiên của chúng biến mất, cũng là một nguyên nhân gây ra sự gia tăng của dịch bệnh.
Một số căn bệnh khác được phát tán thông qua phân và nước tiểu của động vật, làm ô nhiễm nước uống hoặc cây trồng cho người và động vật chăn nuôi trong trang trại. Điều này đã được ghi nhận ở Bangladesh, nơi những con dơi uống nước và đi tiểu vào các máng lấy nhựa cọ. Điều này được cho là đã làm bùng phát dịch virus Nipah trong cộng đồng địa phương.
3. Vật nuôi
Mặc dù đúng là động vật hoang dã đang truyền những virus zoonotic sang con người, nhưng trong đời sống hàng ngày, chúng ta lại thường xuyên tiếp xúc với động vật nuôi nhiều hơn, tạo ra nhiều cơ hội cho bệnh lan truyền hơn.
Trong 20 năm qua, gia cầm thường truyền bệnh cúm sang người, với các đợt bùng phát (thường gây ra tỷ lệ t.ử v.ong cao) của các chủng H5N1 hoặc H7N9.
Mặc dù ít gây c.hết người hơn nhưng các vi khuẩn như salmonella và campylobacter thường được tìm thấy trên động vật trang trại, cũng đã gây ra hàng ngàn trường hợp ngộ độc thực phẩm chỉ tính riêng ở Anh.
Ngay cả những vi khuẩn vô hại thông thường cũng có thể có được các gen kháng kháng sinh trong các trang trại lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi.
Bên ngoài Châu Âu, kháng sinh thường được thêm vào thức ăn chăn nuôi như chất kích thích tăng trưởng, nhưng chúng cũng có khả năng nuôi dưỡng các chủng vi khuẩn đa kháng thuốc.
4. Làm thế nào để ngăn chặn dịch bệnh từ động vật?
Không có giải pháp đơn giản nào để ngăn chặn sự bùng phát của virus động vật, nhưng các nhà nghiên cứu trong dự án Bat-One-Health của Olivier Restif đang nghiên cứu cách củng cố ba tuyến phòng thủ cụ thể cho loài người.
Thứ nhất là phải bảo tồn được hệ sinh thái và phục hồi môi trường sống tự nhiên cho động vật hoang dã. Điều này khiến chúng không tràn vào khu vực sinh sống của con người như các thành phố, thị trấn hay trang trại để kiếm thức ăn - làm giảm nguy cơ con người phải tiếp xúc với mầm bệnh.
Thứ hai, đó là tư vấn và thúc đẩy các chính sách cho chính phủ. Chẳng hạn như, nếu chúng ta muốn giảm thiểu hoạt động khai thác động vật hoang dã để bán dưới dạng thực phẩm hoặc nguyên liệu y tế, chúng ta phải từng bước đảm bảo được kế sinh nhai cho những người đang tham gia vào ngành công nghiệp này.
Quan trọng nhất, chính phủ cũng phải đầu tư vào y tế công cộng và hoạt động giám sát dịch bệnh. Các nghiên cứu cũng cần được tiến hành liên tục. Bởi hiểu virus lây từ động vật sang người như thế nào có thể giúp chúng ta chặn đứng các dịch bệnh trong tương lai.
zknight
Ca bệnh điển hình chứng tỏ ngoài phổi, COVID-19 còn tổn hại tới tim Hàn Quốc công bố một bệnh nhân mắc COVID-19 đầu tiên có phát bệnh về tim vào cuối tuần qua. Thông tin cho thấy virus SARS-CoV-2 thường gây bệnh liên quan tới hô hấp có thể có các triệu chứng phức tạp ở diện rộng hơn. Ảnh minh họa Tại Daegu, thành phố bị ảnh hưởng mạnh nhất của COVID-19 ở Hàn Quốc...