Đại đồn Chí Hòa, chiến lũy vĩ đại giữa Sài Gòn xưa
Sau khi bao vây, Nguyễn Tri Phương cho quân liều chết dưới mưa đạn để hãm đồn Cây Mai. Đêm 3 và 4-7-1860, 3.000 quân Việt đã tràn lên đánh chiếm một đồn lũy có 160 lính Tây Ban Nha và Pháp.
Đường Cách Mạng Tháng Tám sáng 11-11, đoạn gần ngã ba Ông Tạ hướng về ngã tư Bảy Hiền. Đây là con đường Thiên Lý thời nhà Nguyễn và là trục dọc của đại đồn Chí Hòa – Ảnh: M.C.
Kỳ 1: Thử dựng lại đại đồn Chí Hòa từ… nghĩa địa cũ
Kỳ 3: “Những người lính An Nam lạ lùng” trong mắt quân viễn chinh
Bản đồ quân sự mà trung úy hải quân Pháp Léopold Pallu, sĩ quan tùy viên tổng hành dinh tướng Charner (chỉ huy lực lượng thủy quân lục chiến đánh đại đồn Chí Hòa) vẽ là hình ảnh rõ nhất về đại đồn Chí Hòa.
Đại đồn lớn đến mức trong Lịch sử cuộc viễn chinh Nam kỳ năm 1861, Léopold Pallu gọi đó là thành (citadelle).
Đại đồn Chí Hòa lớn gấp 15 lần thành Gia Định
Thành Gia Định bị thất thủ năm 1859 vuông vức, mỗi cạnh khoảng 450m, tổng diện tích khoảng hơn 0,2km2 (hơn 20 ha).
Cụm đồn lũy Chí Hòa chỉ tính riêng khu vực chính (đại đồn) đã gần 3km2 (300 ha).
Những đồn lũy đầu tiên của đại đồn được xây dựng ngay sau khi thành Gia Định thất thủ ngày 14-2-1859. Theo Monographie de la province de Gia Đinh (chuyên khảo về tỉnh Gia Định – 1902), thượng thư bộ Hộ Tôn Thất Hiệp đã sai lính đắp đồn Tiền trên đường Thiên Lý (nay là Cách Mạng Tháng Tám) đi Tây Ninh. Đồn Hữu (phải) và đồn Tả (trái) hai bên.
Lúc này quân Pháp đang ở khu vực trung tâm Sài Gòn.
Hai bên đã từng đụng độ nhau. Hai tháng sau khi thất thủ Gia Định, 6g sáng 10-4-1859, một nhóm quân Việt từ đồn Tiền đi Chợ Lớn đã bất ngờ đụng một tiểu đội Pháp. Hai bên dàn quân và nổ súng vào nhau. Cả hai bên đều có người chết.
Một năm sau, 16-4-1860, Pháp đánh chiếm khu vực chùa Cây Mai (góc Nguyễn Thị Nhỏ – Hồng Bàng hiện nay) và chùa Kiểng Phước (theo học giả Vương Hồng Sển và nhà văn Sơn Nam, nằm góc Lý Thường Kiệt – Nguyễn Chí Thanh, có thể ở khu vực Trường ĐH Y dược TP.HCM hiện nay) mà lính Việt lúc ấy đang đóng quân).
Người Pháp tổ chức đánh chiếm tiếp đồn Tiền nhưng gặp sự chống trả mạnh mẽ của quân dân đại đồn nên đã thất bại nặng, phải co cụm trở về.
Lính Pháp (trái), Việt (giữa) và Tây Ban Nha (phải) trong trú đóng khu vực đại đồn Chí Hòa và xung quanh đồn – Ảnh tư liệu
Triều đình Huế cử Nguyễn Tri Phương vào Nam với chức kinh lược đại thần để điều khiển mọi việc. Ông đã tu bổ, xây dựng vững chắc, quy mô hơn phòng tuyến đồn lũy, hình thành rõ nét đại đồn Chí Hòa.
Video đang HOT
Theo bản đồ của Léopold Pallu, đại đồn có hình thang dài, đáy lớn lõm ở giữa (theo hình thế một con rạch tự nhiên chảy ra kênh Nhiêu Lộc – con rạch này giờ không còn), cắt qua Cách Mạng Tháng Tám hiện nay ở đoạn đường Bắc Hải. Đáy nhỏ nằm khoảng khu vực đường Trương Công Định, Bàu Cát (Tân Bình).
Đại đồn nằm dài theo đường Thiên Lý (nay là Cách Mạng Tháng Tám – trên bản đồ hiện nay chiều dài này khoảng gần 3km). Bản đồ vẽ rất rõ đồn gồm năm khu vực ngăn cách nhau theo chiều dọc này; mỗi khu vực như một thành lũy riêng biệt, qua lại bằng những cánh cổng lớn chắc chắn như cổng thành.
Có lẽ thiết kế này để phòng khi khu vực nào thất thủ, quân đồn trú có thể rút sang khu vực khác và thực tế đã xảy ra như vậy khi Pháp tấn công đại đồn sau này.
Riêng khu vực cuối cùng có thêm một tường bao bên trong và hai đồn lớn bên ngoài, theo bản đồ hiện nay một ở khoảng ngã tư Bảy Hiền và một ngay cạnh vòng xoay Lăng Cha Cả. Bản đồ ghi fort des Mandarins (đồn chỉ huy).
Đầm Sen gần đại đồn được tận dụng che chắn cạnh dài phía nam đại đồn. Và thực tế, khi liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công, họ đã phải đánh vòng qua khu đầm này.
Đại đồn Chí Hòa (màu cam – với khu vực chỉ huy nằm gần phía Bà Quẹo hiện nay – góc phía bắc đại đồn) và hệ thống đồn lũy của xung quanh (màu đỏ). Giữa các đồn phía nam còn có thêm hai lũy dọc và ngang mà trong bản đồ hành quân của Léopold Pallu ghi là chiến lũy mới (nouvelle ligne). Tuy nhiên, bản đồ này vẽ thiếu đồn Tây Thới nằm giữa đồn Thuận Kiều và Rạch Tra – Bản đồ hành quân của Léopold Pallu
Vị trí đại đồn Chí Hòa trên bản đồ Sài Gòn và vùng phụ cận 1892. Lúc này con rạch tự nhiên tạo nên góc lõm của đại đồn vẫn còn – Ảnh tư liệu – Đồ họa Trị Thiên
Vị trí đại đồn Chí Hòa trên bản đồ hiện nay – Đồ họa: Trị Thiên
13 đồn lũy dày đặc quanh đại đồn và áp sát Sài Gòn – Chợ Lớn
Thật ra, không chỉ co cụm trong khu vực 3km2 đại đồn, tướng Nguyễn Tri Phương còn cho xây dựng thêm hàng loạt đồn lũy mới bảo vệ đại đồn từ vòng ngoài với phạm vi kiểm soát rất rộng.
Cụ thể, thay cho đồn Cây Mai và đồn Kiểng Phước bị mất, bên cạnh đồn Hữu rất lớn cách đồn Cây Mai (đã bị Pháp chiếm) gần 2km, ông cho xây dựng bốn đồn khác gần như áp sát hai đồn cũ, có đồn chỉ cách 400, 500m. Hai chiến lũy dài khoảng 5km nối các đồn với nhau để bảo vệ nhau cùng với bảo vệ từ xa cạnh phía nam dài 3km.
Mặt bắc đồn cũng có bốn đồn nằm cạnh các con rạch: một đồn nằm ở khu vực cầu Lê Văn Sỹ hiện nay, hai đồn hai bên cầu Kiệu – ba đồn này cách thành Gia Định thất thủ khoảng 3km. Một đồn khác rất lớn bản đồ quân sự của Léopold Pallu ghi fort Annammite (đồn An Nam) nằm giữa rạch Vàm Thuật và cầu kinh Thanh Đa – chúng tôi ước đoán ở khúc nối rạch Lăng và rạch Cầu Sơn, khoảng đường Nguyễn Xí (Bình Thạnh) hiện nay. Đồn này án ngữ con đường quan trọng đi Biên Hòa, nối với lực lượng quân Việt ở thành Biên Hòa chưa bị chiếm lúc đó.
Hai đồn khác, một nằm sát khu vực chỉ huy của bộ phận chỉ huy đại đồn (Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Hiệp, Phạm Thế Hiển – bản đồ ghi là des Mandarins), nay là khoảng ngã tư Bảy Hiền và một nằm gần khu vực vòng xoay Lăng Cha Cả hiện nay.
Khu vực ngã tư Bảy Hiền về hướng Bà Quẹo hiện nay. Đây là khu vực trung tâm chỉ huy đại đồn Chí Hòa xưa – Ảnh: M.C.
Vòng xoay Lăng Cha Cả sáng 11-11. Khu vực này xưa cũng có đồn cạnh bên khu lăng mộ này để kiểm soát quân Pháp từ hướng Nam Kỳ Khởi Nghĩa và bảo vệ đồn chỉ huy ở ngã tư Bảy Hiền – Ảnh: M.C.
Phía sau đại đồn, về hướng bắc cũng có ba đồn lớn: Thuận Kiều (ở Tân Thới Nhứt, Q.12 hiện nay) và Tây Thới (xã Tân Thới Nhì, Hóc Môn), Rạch Tra (nằm giữa địa Hóc Môn – Củ Chi) nhằm hỗ trợ đại đồn cũng như rút quân về phía Tây Ninh khi cần thiết.
Theo nhà văn Phan Trần Chúc, một vị tướng Pháp lúc đó khen ngợi: “Thấy phương pháp dụng binh của Nguyễn Tri Phương, người ta phải tin rằng vị nguyên soái anh hùng của nước Nam đã biết phương lược xây dựng lối pháo đài tạm thời như Totleben ở Sébastopol, Denfert Rochereau ở Belfort, Osman Pacha trong trận Plevna”.
Quân Pháp nhận xét: “Thành lũy của Nguyễn Tri Phương dựng mau như nấm mọc, hễ chỗ nào có lối đi là có ngay chiến lũy ngăn cản”.
Có ý kiến cho rằng sau khi mất thành Gia Định năm 1959, nhà Nguyễn chủ trương “thủ để hòa”, nhưng chắc chắn lực lượng quân dân Việt khu vực đại đồn Chí Hòa không chỉ thủ mà thực tế đã có lúc tấn công dữ dội lực lượng quân Pháp đang chiếm đóng khu vực bên ngoài thành Gia Định và dọc kinh Bến Nghé.
Cụ thể, theo nhà văn Phan Trần Chúc, “sau khi bao vây được quân Pháp, Nguyễn Tri Phương cho quân liều chết dưới mưa đạn để hãm đồn Cây Mai. Trong đêm 3 và 4-7-1860, 3.000 quân của ông đã anh dũng chiếm được một đồn lũy do đại úy người Tây Ban Nha Fernandez chỉ huy với 100 lính Tây Ban Nha và 60 lính Pháp. Trong tháng 11 cùng năm, quân Pháp lại tấn công dữ dội các pháo đài ở Gia Định nhưng quân nhà Nguyễn đã đánh lui được đối phương khiến quân Pháp bị thiệt hại… (Nguyễn Tri Phương – Nxb Văn Hóa Thông Tin).
Cũng từ khu vực đại đồn, các nhóm dân quân Việt đã nhiều lần đột nhập tận nơi quân Pháp trú đóng, như chiều 7-12-1860 nhóm này đã phục kích giết chết đại úy thủy quân lục chiến Barbé khi viên sĩ quan này từ chùa Khải Tường (Trường THPT Lê Quý Đôn, Q.3 hiện nay) đến đền Hiển Trung (nay thuộc khu vực Bộ Công an trên đường Nguyễn Trãi, Q.1).
Léopold Pallu viết: “Chiều hôm đó, đại úy thủy quân Barbé cưỡi ngựa đi tuần tra như thường lệ. Bọn sát nhân rình rập trong một bụi cây… Ông bị đột kích bằng giáo té ngay xuống ngựa. Bọn An Nam liền cắt đầu, bò qua các bụi rậm và cỏ cao trở về giới tuyến cũ của thành Kỳ Hòa (tên người Pháp gọi đại đồn Chí Hòa). Sáng hôm sau, người ta thấy phần thân thể còn lại (của Barbé) bị bỏ bên vệ đường…”.
Quân dân Việt ở toàn bộ khu vực đồn lũy Chí Hòa cuối năm 1860, theo các tư liệu của người Pháp có khoảng 21.000 quân chính quy và 10.000 quân dân dũng (vốn làm ở đồn điền nên còn gọi là lính đồn điền, “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”). Trong khi đó, quân Pháp – Tây Ban Nha lúc cao điểm chỉ có khoảng 800 quân, bị vây chặt tới nỗi sáu, bảy tháng liền không nhận được tin tức gì từ phía Pháp.
Ngươc lại, có lẽ quân dân nhà Nguyễn cũng không nắm hết thực lực địch nên chưa quyết định tổng tấn công tái chiếm thành Gia Định.
“Một cơ hội giải phóng đất nước đã bị bỏ qua” – hầu hết các nhà nghiên cứu, nhà văn hóa của chúng ta đã thốt lên tiếc rẻ về giai đoạn này như vậy.
Đón đọc kỳ 3: Quân Việt ở đại đồn Chí Hòa dũng cảm hơn quân Tây, khinh thường cái chết và “hình ảnh kỳ lạ” mà lính Pháp – Tây Ban Nha chứng kiến khi tấn công đại đồn Chí Hòa?
(Theo Tuổi Trẻ)
Trại giam Chí Hòa - 'trận đồ bát quái' giữa lòng Sài Gòn
Rộng 7 hecta với 8 cạnh đều nhau, nhìn từ trên cao, Khám Chí Hòa - nơi tạm giam bị can, như một trận đồ bát quái giữa trung tâm thành phố.
Trại giam Chí Hòa, còn gọi là Khám Chí Hòa, nằm tại quận 10, TP HCM, là nhà tù được người Pháp xây dựng từ năm 1943 nhằm thay thế Khám Lớn Sài Gòn ở góc đường Lý Tự Trọng - Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Công trình được cho là do người Nhật khởi xướng sau khi đảo chính Pháp để giam tù nhân, tuy nhiên khi thi công chưa hoàn thành, họ đã rút khỏi Việt Nam.
Sau đó, người Pháp tiếp tục công việc bỏ dở. Hầu như toàn bộ vật liệu như xi măng, sắt, thép đều chở từ Pháp sang. Ngày 8/3/1953, khi Khám Chí Hòa xây dựng hoàn chỉnh, Khám Lớn Sài Gòn bị phá bỏ. Ngoài một số tù nhân được phóng thích, còn lại khoảng 1.600 người cùng chiếc máy chém chuyển về Khám Chí Hòa.
Khám Chí Hòa nhìn từ trên cao trước năm 1975. Ảnh: S.T
Với diện tích 7 hecta, Khám Chí Hòa cao 3 tầng lầu, 238 phòng. Trong đó có hai dãy nhà dành cho phạm nhân nữ. Nơi đây từng giam tù chính trị chống lại thực dân Pháp, chống chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Ngày nay, nơi này được Công an TP HCM dành cho các bị can trong các vụ án trên địa bàn.
Khám Chí Hòa do một kiến trúc sư người Nhật thiết kế và xây dựng theo thuyết ngũ hành, bát quái được đánh giá là một công trình kiến trúc đặc biệt. Vừa hòa hợp những đặc trưng cơ bản của kiến trúc Pháp: kiên cố, kín đáo, mát mẻ, vừa mang nét huyền bí âm dương ngũ hành của phương Đông.
Khám có hình bát giác với 8 cạnh đều nhau, 8 góc tượng trưng cho 8 quẻ: Càn, Khôn, Chấn, Tốn, Cẩn, Khảm, Đoài, Ly trong Kinh Dịch. Khám có 8 khu giam phạm nhân, xây hình bát giác vuông.Một vài tài liệu nghiên cứu lại cho rằng, Khám Chí Hòa được xây dựng dựa trên bát quái trận đồ của Khổng Minh Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. 8 quẻ tương ứng với 8 cửa trận là: Hưu - Sinh - Thương - Đỗ - Cảnh - Tử - Kinh - Khai.
Mỗi cạnh của bát quái trận đồ là một khu, lưng xây bịt kín ở phía ngoài còn phía trong toàn song sắt và mỗi khu có 4 buồng giam. Chí Hòa chỉ có một cửa vào nên người ta gọi đó là "cửa tử". Qua cửa này là hệ thống đường hầm thiết kế theo cung vị nếu không được hướng dẫn, người đi vào sẽ bị mất phương hướng, giống như lọt vào một mê cung, không thể tự tìm đường ra được.
Tháp nước chính giữa trận đồ bát quái giống như thanh kiếm cắm xuống. Ảnh: CAND
Giữa Khám Chí Hòa là khoảng sân rộng cũng hình bát giác chia thành 8 khu tam giác nhỏ, với rất nhiều cây, bãi cỏ sạch sẽ và thoáng mát. Ở giữa là một vọng gác cao hơn 20 m, trên có bể chứa nước phình to như một cây kiếm cắm thẳng xuống. Đứng tại đây, lính canh có thể dễ dàng quan sát tất cả các phòng giam.
Với kiến trúc trận đồ bát quái của Chí Hòa, phạm nhân khi đã vào đây thì khó mà vượt ngục. Lịch sử cho đến nay chỉ có 3 lần vượt ngục thành công. Trường hợp thứ nhất là các chiến sĩ cách mạng vào thời điểm Nhật đảo chính Pháp năm 1945, thứ 2 là tướng cướp Điền Khắc Kim vào năm 1972 và người thứ ba là tử tù khét tiếng Phước "Tám Ngón" năm 1995.
Từ lâu, Khám Chí Hòa đã gắn với những giai thoại kỳ bí. Người ta đồn rằng, vọng gác chính giữa khám chính là thanh kiếm trấn. Những tên tội phạm dù có xảo quyệt đến đâu thì khi ở đây mọi thủ đoạn của chúng cũng bị thanh kiếm "linh" này hoá giải. Thanh kiếm này chính là "trái tim" của của toà nhà, nếu nó bị nhổ lên thì toàn bộ "trận đồ" sẽ tự vỡ.
Một câu chuyện ly kỳ khác vẫn được người ta truyền miệng là do có nhiều người chết trong Khám Chí Hòa nên âm khí ở đây rất nặng nề. Vì thế, trời thường xuyên làm sấm sét đánh bể một góc để khai một cửa Sanh, cho oán khí được thoát ra, người chết được siêu thoát.
Từng có thông tin cho rằng, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã rước một thầy địa lý rất cao tay về nhằm hoá giải một phần "trận đồ" này. Thực tế, một trong 8 nóc nhà của hình bát giác đã được san bằng, phá vỡ tính hoàn hảo của "bát quái", thuận theo thiên ý mở một cửa Sanh cho các linh hồn được bay đi. Trong khi đó, một số nhà khoa học thì cho rằng bên dưới của tòa nhà có thể là mỏ quặng khiến sét hay đánh trúng Khám Chí Hòa.
Trại giam Chí Hòa nhìn từ vệ tinh. Ảnh: Google maps
Trong khuôn viên Khám Chí Hòa còn có một nhà thờ (ngày nay được sử dụng làm Hội trường của Trại) được Pháp xây dựng làm nơi "rửa tội" cho những tù nhân trước khi bị xử tử. Ngoài ra, để giải thoát "âm khí", năm 1954, cai ngục Khám Chí Hòa cho xây bên ngoài "bát quái trận" (nhưng vẫn nằm trong khuôn viên khám) ngôi chùa đặt tượng Phật. Sau này ngôi chùa không còn, bức tượng Phật hiện nằm trên một hồ nước nhỏ.
Trung Sơn
Theo VNE
Ngập nước, kẹt xe ở Sài Gòn xưa 60 năm trước ôtô xếp hàng dài, nước cũng ngập nửa bánh xe trên các tuyến đường ở trung tâm thành phố. Ngập nước, kẹt xe đang là vấn đề nhức nhối của TP HCM do dân số tăng cao nhưng hạ tầng không đáp ứng kịp. Tuy nhiên, 50-60 năm trước Sài Gòn cũng thường xảy ra ùn tắc. Trong ảnh là...