Đại dịch Covid-19 khiến chuỗi cung ứng đứt gãy, phá hủy nền kinh tế
Chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt gãy bởi đại dịch Covid-19, đe dọa cả những “gã khổng lồ” kinh tế hàng đầu như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức…
Đại dịch Covid-19 đang phủ bóng đen u ám lên nền kinh tế thế giới và làm đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu, đe dọa cả những “gã khổng lồ” kinh tế hàng đầu như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức…
Công nhân làm việc trong một nhà máy ở Xiangtan (Trung Quốc) vào tháng 3/2020. (Ảnh: Xinhua)
Hoạt động của các sân bay, nhà máy và cửa hàng đều chậm lại hoặc đóng cửa vì đại dịch do virus corona chủng mới gây ra, tạo ra thách thức lớn đối với chuỗi cung ứng quốc tế – đặc điểm chỉ rõ nhất tính chất của thời đại toàn cầu hóa hiện nay.
Quy trình sản xuất đa nhà máy – thường là qua nhiều quốc gia – được thịnh hành tại các công ty trên khắp thế giới, và hiện đang tỏ ra yếu ớt, dễ đứt gãy hơn dự đoán.
Nếu virus và các mảnh vụn kinh tế đổ nát mà nó gây ra không được kiềm chế sớm, việt quất và quả bơ không chỉ là những thứ duy nhất biến mất khỏi kệ hàng trong các siêu thị ở vùng Trung tây và Đông Bắc Mỹ. Ô tô, quần áo, đồ điện tử và thuốc men cơ bản sẽ trở nên thiếu thốn khi các nhà máy ở xa mất kết nối với nhau.
Sự sụp đổ của chuỗi cung ứng toàn cầu đã thúc đẩy những lời kêu gọi đưa việc sản xuất các nguồn cung cấp y tế và công nghệ quan trọng trở lại Mỹ – một động thái làm đứt quan hệ thương mại quốc tế và tổn hại đến tiến trình toàn cầu hoá. Tuy nhiên, quay trở lại các nguồn lực trong nước (reshoring) sẽ mang lại nhiều vấn đề hơn là khắc phục trong ngắn hạn và trung hạn, và về lâu dài sẽ khiến các doanh nghiệp Mỹ giảm sức cạnh tranh.
Thay vì từ bỏ những chuỗi cung ứng toàn cầu, chính phủ và các công ty nên tập trung vào việc làm cho chúng trở nên dư thừa hơn (redundancy). Nhiều nhà cung cấp và nhiều hàng tồn kho hơn có thể làm cho quy trình sản xuất toàn cầu trở nên kém hiệu quả hơn một chút, nhưng những khoản dự phòng này sẽ làm tăng độ tin cậy và khả năng phục hồi, mang lại lợi ích cho các quốc gia, công ty và người tiêu dùng.
Trong 4 thập kỷ qua, bản chất của thương mại đã thay đổi hoàn toàn. Trong nhiều thế kỷ, các quốc gia chủ yếu gửi hàng thành phẩm ra nước ngoài: dầu ô liu từ Italy, rư-ợu từ Tây Ban Nha, lông thú từ Canada; và sau đó là xe hơi từ Đức, máy may, máy in, và máy tính tiền từ Mỹ. Còn hiện nay, các quốc gia chủ yếu gửi các bộ phận hoặc linh kiện ra nước ngoài để uốn, hàn, chèn hoặc khâu lại với nhau trong các nhà máy và phân xưởng nước ngoài.
Việc phân chia sản xuất thành các bước riêng biệt trở nên khả thi nhờ những tiến bộ trong giao thông vận tải, công nghệ và truyền thông, cũng như độ mở cửa thị trường thế giới. Chi phí vận chuyển giảm mạnh khi các container tiêu chuẩn tăng nhanh chóng. Cáp quang, điện thoại di động, internet, điện toán đám mây, dịch vụ gọi băng thông rộng và hội nghị trực tuyến gần như miễn phí cho phép mọi người cộng tác, chia sẻ các tập tin, tài liệu và ý tưởng, ngay cả khi họ ở rất xa về mặt địa lý.
Video đang HOT
Sự đồng thuận thương mại tự do rộng lớn xuất hiện sau thời kỳ Chiến tranh Lạnh (Cold War) đã thúc đẩy sự chuyển đổi sang sản xuất toàn cầu, thúc đẩy quan hệ thương mại quốc tế phát triển mạnh mẽ.
Mặc dù có vai trò to lớn trong việc thiết lập trật tự quốc tế mở này, Mỹ chưa bao giờ hoàn toàn chấp nhận sự đồng thuận thương mại tự do. Họ duy trì hạn ngạch đối với mặt hàng đường và cá ngừ; thuế quan đối với thép, nhôm, giày và thuốc lá; và trợ cấp cho tất cả các loại nông sản. Mặc dù vậy, Mỹ cũng đã phụ thuộc lớn vào các liên kết thương mại toàn cầu. Khoảng 1/3 xuất khẩu của Mỹ là các bộ phận, linh kiện của các sản phẩm khác, được sản xuất bên ngoài nước Mỹ như: bông, thép, chất bán dẫn, động cơ và máy móc lắp ráp…
Người tiêu dùng Mỹ cũng phụ thuộc vào chuỗi cung ứng từ xa cho các sản phẩm họ mua hàng ngày, được hưởng giá thấp hơn vì trao đổi quốc tế đã làm cho các mặt hàng này sản xuất hiệu quả hơn. Theo Viện Kinh tế Quốc tế Peterson (Peterson Institute for International Economics), một hộ gia đình trung bình ở Mỹ tiết kiệm 10.000 USD mỗi năm nhờ thương mại quốc tế.
Đã có những đề xuất về tiêu dùng nội địa, định hình lại các công nghệ và sản phẩm tiên tiến, chẳng hạn như robot, bộ vi xử lý và xe điện. Tuy nhiên, trong ngắn hạn và trung hạn, những cách tiếp cận này thậm chí còn gây ra nhiều rủi ro hơn cho sản xuất, bởi vì việc tái tạo lại chuỗi cung ứng đáng tin cậy rất khó khăn.
Apple học được bài học đắt giá này khi họ cố gắng sản xuất MacBook Pro ở Texas vào năm 2013. Toàn bộ liên doanh đã thất bại vì không thể tìm nổi một loại ốc vít sản xuất trong nước mà họ cần.
Về lâu dài, việc tháo dỡ chuỗi cung ứng quốc tế sẽ khiến các doanh nghiệp Mỹ giảm sức cạnh tranh và làm giảm lợi thế công nghệ toàn cầu của họ. Người mua và nhà cung cấp vẫn nhìn thấy thuận lợi, ưu điếm của nước ngoài khi so sánh với trong nước. Mang tất cả mọi hoạt động sản xuất về nội địa có nguy cơ làm tăng chi phí và giảm sức hấp dẫn của các sản phẩm của Mỹ đối với 95% người tiêu dùng trên thế giới, những người sống bên ngoài biên giới Mỹ./.
Trần Ngọc
Phương thuốc cho nền kinh tế 'nhiễm' virus
Virus SARS-CoV-2 đang làm đảo lộn cuộc sống trên toàn cầu, khiến nhiều chính phủ phải áp đặt các biện pháp hạn chế hiếm thấy trong thời bình, như đóng cửa biên giới, cách ly và hoãn hoặc hủy các sự kiện cộng đồng. Những biện pháp giảm nguy cơ lây lan dịch bệnh này ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh tế toàn cầu trong bối cảnh điều kiện tiên quyết của toàn cầu hóa là duy trì trao đổi đa phương.
Công nhân làm việc bên trong một nhà máy ở Du Bắc, tỉnh Trùng Khánh, Trung Quốc ngày 11/3/2020. Ảnh: THX/TTXVN
Xuất hiện lần đầu tiên tại Trung Quốc hồi tháng 12/2019, dịch bệnh khiến nhiều thành phố tại quốc gia này bị phong tỏa, các hoạt động giao thông đình trệ, cửa hàng ngừng hoạt động, hàng loạt nhà máy tại trung tâm sản xuất của thế giới phải đóng cửa.
Khi đó, giới chuyên gia đã phần nào lo ngại những tác động kinh tế của dịch bệnh khi rất nhiều công ty lớn trên thế giới đặt nhà máy hoặc có hợp đồng sản xuất thiết bị và phụ kiện tại Trung Quốc. Nhưng tác động khi đó vẫn được đánh giá là trong ngắn hạn. Cục diện chuyển biến xấu khi dịch bệnh lây lan nhanh ra các quốc gia khác và hiện tại COVID-19 đang bùng phát mạnh nhất tại châu Âu, với số ca nhiễm và tử vong trên toàn cầu tăng vọt.
Hậu quả là virus SARS-CoV-2 đang "hạ gục" gần như mọi lĩnh vực của nền kinh tế toàn cầu, ngày càng có thêm lo ngại thế giới sẽ bị đẩy vào một cuộc suy thoái với thiệt hại không thể ước tính được. Các ngành hàng không, dịch vụ du lịch, khách sạn, dầu mỏ và bán lẻ mỗi ngày một "ngấm đòn" khi các lệnh hạn chế đi lại, đóng cửa nhà máy, cửa hàng, địa chỉ vui chơi liên tục xuất hiện.
Tại những nơi virus "đổ bộ" ở Tây Âu, Pháp đóng cửa mọi doanh nghiệp trong lĩnh vực không thiết yếu, Tây Ban Nha cấm người dân ra khỏi nhà... Việc "đóng cửa" đột ngột phần lớn nền kinh tế tiêu dùng kéo theo số lao động thất nghiệp gia tăng, làm giảm chi tiêu tiêu dùng, doanh nghiệp hạn chế đầu tư. Tâm lý bi quan bao trùm đẩy các thị trường chứng khoán vào chuỗi ngày lao dốc không phanh. Các cổ phiếu hàng không rớt thê thảm sau khi nhiều hãng ở châu Âu và Mỹ tuyên bố cắt giảm số lượng lớn các chuyến bay. Giá dầu mỏ cũng chịu cảnh tương tự.
Ngay tại Mỹ, Tổng thống Donald Trump phải thừa nhận nền kinh tế lớn nhất thế giới có thể đang tăng trưởng chậm lại và có nguy cơ rơi vào suy thoái. Trong khi đó, tại "tâm dịch" Trung Quốc đồng thời cũng là trung tâm sản xuất của thế giới, mặc dù tốc độ lây lan của virus đã được kiểm soát, song tác động nghiêm trọng về kinh tế của dịch COVID-19 đã lộ rõ. Sản lượng công nghiệp của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới giảm 13,5% trong 2 tháng đầu năm và là lần giảm đầu tiên trong gần 30 năm qua.
Nền kinh tế thế giới đứng trước bờ vực rơi vào tình trạng tê liệt khi các nhà máy ngừng sản xuất, các chuỗi cung bị đứt gãy, hàng hóa không vận chuyển được và người dân cũng ngừng đi lại vì dịch bệnh lan rộng. Tổng Giám đốc Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) Kristalina Georgieva từng cảnh báo dịch COVID-19 gây ra "nguy cơ nghiêm trọng" và sẽ làm giảm mạnh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu trong năm 2020 xuống thấp hơn mức 2,9% của năm trước.
Giao dịch viên theo dõi chỉ số chứng khoán tại sàn giao dịch New York, Mỹ ngày 16/3/2020. Ảnh: AFP/TTXVN
Theo cách phản ứng với cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, các ngân hàng trung ương của Nhóm các nước công nghiệp phát triển (G7) như Ngân hàng Dự trữ liên bang Mỹ (FED), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB), Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) đã có hàng loạt động thái nhằm đảm bảo tính thanh khoản cho thị trường. Tuy nhiên, không giống như cú sốc ngân hàng năm 2008, khi người ta phần nào có thể định lượng được thiệt hại, thì COVID-19 vẫn còn là một "kẻ thù giấu mặt" và nền kinh tế toàn cầu còn có thể "ngấm đòn" sâu hơn khi mà các biện pháp phong tỏa cả quốc gia vẫn được duy trì.
Bằng chứng là ngay cả khi FED đã nhanh chóng tìm cách ngăn chặn "thảm họa kinh tế" bằng cách liên tục cắt giảm lãi suất, đưa biên độ lãi suất xuống mức dao động quanh 0%, BOJ và một số ngân hàng trung ương ở châu Âu cũng công bố những biện pháp kích thích kinh tế khẩn cấp, thì trên các thị trường chứng khoán, vốn được coi là hàn thử biểu sức khỏe của các nền kinh tế, tâm lý của các nhà đầu tư có vẻ không được cải thiện nhiều.
Chứng khoán Phố Wall khép lại ngày giao dịch 16/3 với dấu mốc "ngày tồi tệ nhất" trong hơn 30 năm khi các chỉ số S&P và Dow Jones lần lượt bị "đo ván" với những mức giảm 12% và 13% . Chứng khoán châu Âu tiếp tục lao dốc với tốc độ không tưởng 9% tại sàn chứng khoán Paris ngay đầu phiên giao dịch 16/3. Tại châu Á, chứng khoán Sydney giảm tới 9,7%, mức giảm sâu nhất từng được ghi nhận trong lịch sử giao dịch tại thị trường này.
Hàng nghìn tỷ USD giá trị thị trường đã "bốc hơi" khi virus SARS-CoV-2 đang dần chứng tỏ khả năng xâm lấn Trái Đất. Giới chuyên gia cũng nhận định rằng mặc dù chỉ số chứng khoán đã xuống tới mức thấp nhất kể từ năm 2008, nhưng tình hình suy thoái kinh tế toàn cầu do virus SARS-CoV-2 gây ra mới chỉ bắt đầu và có lẽ phải vài tháng nữa thế giới mới có được những con số thiệt hại cụ thể.
Tình trạng này cho thấy lòng tin thị trường vẫn chưa thể vực dậy ngay cả khi những ngân hàng trung ương lớn đã vận đến những chính sách mạnh nhất. Chuyên gia Jasper Lawler, trưởng nhóm nghiên cứu nhà đầu tư của hãng London Capital Group, ví bước cắt giảm lãi suất mạnh tay và các biện pháp nới lỏng định lượng của FED như "màn khai hỏa một khẩu súng chống tăng bazooka", nhưng lại trượt đích và thế là các thị trường toàn cầu vẫn rơi tự do.
Chuyên gia này nhận định dường như đang tồn tại "niềm tin" trên các thị trường rằng suy thoái là điều không thể tránh khỏi. Chính vì vậy, kể cả FED có đưa lãi suất xuống 0% thì vẫn không thể chặn được đà lao dốc của nền kinh tế Mỹ và nhìn rộng ra là nền kinh tế toàn cầu. Theo nhà kinh tế trưởng của hãng nghiên cứu kinh tế Capital Economics, Neil Shearing, một giai đoạn suy giảm đáng kể đang gần kề, câu hỏi duy nhất lúc này là mức suy giảm sẽ sâu như thế nào.
Cuộc họp của lãnh đạo G7 và sau đó là bộ trưởng Tài chính Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) được kỳ vọng sẽ giúp tìm ra giải pháp cho cuộc khủng hoảng toàn cầu "chưa từng có tiền lệ" khi các ngân hàng trung ương đã "hết võ". Tại cuộc họp G7 do Tổng thống Mỹ Donald Trump chủ trì, các nhà lãnh đạo đã nhất trí triển khai những biện pháp đủ mạnh để đối phó với tác động kinh tế nghiêm trọng từ đại dịch cùng với thông điệp mạnh mẽ, trong đó cam kết dốc toàn lực để đối phó với dịch COVID-19.
Giới phân tích cho rằng với "điểm mạnh" hơn hẳn so với cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 là các nước đang "lâm trận" với một sức khỏe tài chính ổn định, thì việc các chính phủ có thể đưa ra những biện pháp tài khóa phù hợp sẽ phần nào giúp giảm nhẹ tác động. Ông Derek Halpenny, nhà nghiên cứu thị trường toàn cầu của tập đoàn tài chính MUFG, cho rằng ở thời điểm dịch bệnh hiện tại, các chính phủ phải hành động quyết đoán hơn về phương diện kích thích tài khóa. Đó là chìa khóa để tiến về phía trước và dĩ nhiên là phải đồng hành cùng những dữ liệu thống kê dịch bệnh "tích cực" mỗi ngày, cho thấy rõ hiệu quả phòng chống COVID-19, để có thể điều hướng tâm lý thị trường.
Quang cảnh bên ngoài Sàn giao dịch chứng khoán ở Sao Paulo, Brazil, ngày 9/3/2020. Ảnh: AFP/TTXVN
Tuy nhiên, một điểm yếu của lần khủng hoảng này là sự thiếu phối hợp ngay từ đầu giữa các quốc gia trong các biện pháp kích thích kinh tế. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đã dẫn tới việc ra đời Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu (G20) để các quốc gia cùng tìm kiếm và triển khai biện pháp ứng phó chung, mà khi đó cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama gọi là "phương thuốc đúng đắn cho người bệnh". Nhưng hơn một thập niên sau, khi đứng trước một đại dịch đe dọa mọi ngóc ngách của nền kinh tế toàn cầu, thì sức mạnh "toàn cầu hóa" đã phần nào bị lung lay bởi chủ nghĩa bảo hộ và chủ nghĩa dân túy, mà đi đầu lại là Mỹ, nền kinh tế số một thế giới.
Một tuần giao dịch chứng khoán mất điểm sâu nhất trong lịch sử đã bộc lộ những hạn chế của tình trạng thiếu phản ứng phối hợp, dẫn tới mỗi quốc gia tự đưa ra giải pháp kích thích riêng khi đối mặt với một cú sốc mang tính hệ thống. Điều đó cho thấy thế giới cần hợp tác ứng phó xuyên biên giới trong công tác ngăn ngừa dịch bệnh và kích thích kinh tế.
Trong bối cảnh các chuyên gia đều dự báo dịch bệnh chưa thể sớm chấm dứt trong 1 - 2 tháng tới, có thể nói đây là thời điểm để các quốc gia chứng minh khả năng lắng nghe và hợp tác cùng chống lại một mối đe dọa chung, một đại dịch toàn cầu.
Trước một kẻ thù chưa phát hiện ra điểm yếu, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres kêu gọi chính phủ các nước hợp tác cùng nhau chiến đấu, cho rằng không một quốc gia nào có thể đơn độc đối mặt với đại dịch. Kinh tế toàn cầu có sự liên kết tương tác, bởi vậy việc đưa ra một phương thuốc chung của sự phối hợp quốc tế để bảo vệ nền kinh tế thế giới trước virus gây đại dịch COVID-19, là điều không còn phải bàn cãi.
Lê Ánh (TTXVN.vn)
Chứng khoán rơi mạnh: Cần nhiều thông tin hỗ trợ Tuần qua, chỉ số VN-Index rơi mạnh từ 891,44 điểm xuống 761,78 điểm, tương ứng mức giảm 14,55%. Đây là tuần giảm mạnh nhất của VN-Index kể từ tháng 3/2008 tới nay (12 năm). Diễn biến xấu của các chỉ số đến từ việc tâm lý nhà đầu tư bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự phức tạp của dịch Covid-19, cũng như...