Đã đến lúc nên tính chuyện cho phá sản ngân hàng
Thời gian qua, Chính phủ không để ngân hàng phá sản nhằm đảm bảo ổn định hệ thống ngân hàng, ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, trong giai đoạn tiếp theo của tiến trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, vấn đề này cần được nghiêm túc xem xét.
Giải pháp mua ngân hàng 0 đồng với những ngân hàng yếu kém, âm vốn chủ phù hợp với mục tiêu giữ ổn định hệ thống trong giai đoạn vừa qua
Phá sản không phù hợp với giai đoạn vừa qua
Luật sư Đặng Dung, Công ty Luật Đặng Dung cho biết, Điều 98, Luật Phá sản năm 2014 có quy định, sau khi Ngân hàng Nhà nước có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà TCTD vẫn mất khả năng thanh toán thì TCTD có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu thủ tục phá sản.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc phá sản TCTD là một vấn đề có tác động mạnh đến nền kinh tế, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của người gửi t.iền, làm giảm sút lòng tin của người dân đối với các TCTD, có thể dẫn đến đổ vỡ hệ thống các TCTD, ảnh hưởng đến sự điều tiết kinh tế vĩ mô của Chính phủ, nên cần rất thận trọng.
Cùng quan điểm này, luật sư Trương Thanh Đức, Chủ tịch Công ty Luật BASICO, Trọng tài viên VIAC cho rằng, giải pháp phá sản ngân hàng là khó khả thi trong thời điểm hiện nay vì tại thời điểm mở thủ tục phá sản, ngân hàng không đủ khả năng chi trả cho người gửi t.iền ngay lập tức vì sự thiếu hụt và phải mất nhiều năm mới có thể thu hồi được, có thể gây ra tình trạng người gửi rút t.iền ồ ạt, dẫn đến nguy cơ với hệ thống tài chính quốc gia. Muốn tránh nguy cơ này, đòi hỏi Nhà nước phải cam kết và có đủ t.iền để bảo đảm chi trả đầy đủ t.iền gửi cho người dân.
Chính vì vậy, tại Quyết định số 255/2012 ngày 1/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ cũng nêu rõ: trong giai đoạn hiện nay, chưa áp dụng phá sản TCTD theo quy định của Luật Phá sản để đảm bảo giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Trên quan điểm không phá sản các TCTD, trường hợp TCTD yếu kém không thể tự cơ cấu lại được thì việc NHNN mua lại, tiếp quản toàn bộ TCTD là cần thiết và giải pháp cuối cùng để bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng.
“Việc NHNN quyết định mua lại bắt buộc các TCTD yếu kém có ý nghĩa tích cực và quan trọng trong vấn đề bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi t.iền, giúp tránh được những tác động xấu đến sự ổn định hệ thống TCTD”, luật sư Đặng Dung nêu quan điểm.
Theo bà Lê Thị Nga, Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, trong giai đoạn 2011-2015, với mục tiêu không để xảy ra đổ vỡ, mất an toàn hoạt động ngân hàng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội thì chủ trương của Chính phủ (đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt) về việc chưa áp dụng phá sản TCTD theo quy định của Luật Phá sản là phù hợp.
Video đang HOT
Tuy nhiên, Quỹ T.iền tệ Quốc tế (IMF) đ.ánh giá, giải pháp NHNN mua lại bắt buộc TCTD chỉ nên là bước đi đầu tiên hướng đến khuôn khổ phù hợp về thanh lý và phá sản ngân hàng, thông qua đó, nguyên tắc kỷ luật thị trường được tăng cường đối với cả cổ đông và người gửi t.iền.
Cho phá sản ngân hàng để người dân không nhắm mắt gửi t.iền?
Bà Nga cho rằng, trong thời gian tới, để một ngân hàng phá sản sẽ là một bài học tốt cho cả giới ngân hàng lẫn người gửi t.iền, tạo “thanh chắn” để họ thận trọng hơn. Hơn nữa, để các TCTD quá yếu kém phá sản sẽ công bằng hơn, vì như vậy Nhà nước sẽ không phải can thiệp giải cứu dựa trên t.iền thuế từ những người dân không được lợi gì từ ngân hàng này (những người không phải là cổ đông hay người gửi t.iền tại TCTD đó).
“Chúng tôi đề nghị NHNN phối hợp với các cơ quan chức năng triển khai công tác chuẩn bị về mọi mặt, nhất là hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Phá sản theo thẩm quyền để có thể thực hiện được quy định phá sản đối với TCTD trong thời gian tới”, bà Nga nhấn mạnh.
Chia sẻ với ĐTCK, Luật sư Trương Thanh Đức cho rằng: “Thời gian tới, phải có những bước đi mạnh mẽ, quyết liệt hơn, đó là cần cho phá sản ngân hàng, để người gửi t.iền buộc phải lựa chọn, cân nhắc kỹ trước nguy cơ mất t.iền, thay vì cứ gửi vào nơi có lãi suất cao nhất, bất kể rủi ro sẽ như thế nào”.
TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế nêu quan điểm, phải tính đến việc cho ngân hàng phá sản thực sự và đừng lo ngại việc này sẽ làm đổ vỡ hệ thống. Trong nền kinh tế thị trường, việc phá sản là một hiện tượng bình thường, không phải là cái c.hết cuối cùng của một DN mà thực tế có thể giúp DN hồi sinh với diện mạo mới và có thể là ông chủ mới.
Ông Hiếu cho biết, thủ tục phá sản ngân hàng tại Mỹ sẽ là: FDIC (Federal Deposit Insurance Corporation-Bảo hiểm t.iền gửi Mỹ) tiếp quản một ngân hàng bị phá sản vào thứ Sáu, mở cửa lại vào thứ Hai vẫn với tên ngân hàng đó nhưng kèm theo bên dưới là dòng chữ “dưới sự kiểm soát của FDIC”.
Trong thời gian điều hành, những món t.iền được FDIC bảo hiểm (dưới 250.000 USD) sẽ được thanh toán rất nhanh trong vòng một tuần. Đối với những người có t.iền gửi tiết kiệm trên 250.000 USD sẽ chờ để FDIC bán tài sản của ngân hàng, trả phần thuế nếu có cho Chính phủ, thanh toán t.iền nợ của nhân viên, các đối tác cung cấp phương tiện hoạt động kinh doanh của ngân hàng, rồi đến các khách hàng gửi t.iền trên mức được bảo hiểm. Tiếp sau đó là, ngân hàng cho vay trên liên ngân hàng, các đối tác cho vay khác và cuối cùng rồi mới đến các cổ đông.
“Việt Nam có thể cho phép ngân hàng phá sản với trình tự tương tự”, TS. Hiếu khuyến nghị.
Nâng cao trách nhiệm bảo hiểm t.iền gửi
Rõ ràng, một trong những vấn đề cần đặt ra khi đề cập tới phá sản ngân hàng là vai trò, trách nhiệm của cơ quan bảo hiểm t.iền gửi. Trong thực tiễn hoạt động tín dụng ngân hàng của nhiều quốc gia trên thế giới thì bảo hiểm t.iền gửi đóng vai trò quan trọng với nhiệm vụ chính là bảo vệ hệ thống thanh toán của một quốc gia trong trường hợp ngân hàng trung ương không chống đỡ nổi một cuộc rút t.iền hàng loạt khỏi hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, còn đóng vai trò dàn xếp quá trình phá sản/thanh lý/tái cấu trúc của các NHTM.
Nhìn về Việt Nam, theo bà Nga, quy định của Luật Bảo hiểm t.iền gửi, ngoài mục đích chính là “bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi t.iền” thì cơ quan này còn có trách nhiệm “phát hiện và kiến nghị NHNN Việt Nam xử lý kịp thời những vi phạm quy định về an toàn hoạt động ngân hàng, rủi ro gây mất an toàn trong hệ thống ngân hàng”, “tham gia vào quá trình kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tham gia bảo hiểm t.iền gửi,… tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm t.iền gửi”, “góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn lành mạnh của hoạt động ngân hàng”…
“Nhưng đáng tiếc là Bảo hiểm t.iền gửi Việt Nam (DIV) chưa thực hiện được vai trò trong hệ thống tài chính là giám sát và đứng ra dàn xếp quá trình phá sản/thanh lý/tái cấu trúc của các NHTM, mà mới chỉ thực hiện đối với các quỹ tín dụng nhân dân”, bà Nga nhận định.
Ông Keith Pogson, Phó tổng giám đốc EY, lãnh đạo cao cấp Dịch vụ tài chính Ngân hàng khu vực châu Á-Thái Bình Dương nói: “Việt Nam chưa có hệ thống để bảo vệ người gửi tiền/lượng t.iền được gửi một cách thỏa đáng”.
Trong khi đó, TS. Nguyễn Trí Hiếu cho rằng, hiện tại nếu cho phá sản ngân hàng, DIV sẽ không đủ t.iền trả cho các khách hàng mặc dù mức bảo hiểm cho mỗi khoản vay chỉ có 50 triệu đồng. Do vậy, trong thời gian tới, nếu chấp nhận để một ngân hàng phá sản, DIV cần phải nâng cao năng lực và đồng thời với đó là nâng hạng mức t.iền bảo hiểm lên.
Theo_Tin Nhanh Chứng Khoán
Ngân hàng ‘may đo’ nhiều sản phẩm mới cho DN
Kết quả tăng trưởng tín dụng cho thấy sự tham gia tích cực của các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp vào hoạt động kinh tế. Đặc biệt, các ngân hàng đã đưa ra nhiều giải pháp hiệu quả giúp doanh nghiệp đến gần với vốn vay hơn.
9 tháng, tăng trưởng tín dụng hơn 10,78%
Hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng hiện đang ở mức tăng trưởng nhanh nhất kể từ năm 2011. Báo cáo của Bộ Tài chính cho biết tính đến ngày 21/9/2015, tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế tăng 10,78% so với cuối năm 2014.
Theo kết quả điều tra mới nhất về xu hướng kinh doanh đối với các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài của Việt Nam do Vụ Dự báo, thống kê -Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện, các tổ chức tín dụng kỳ vọng dư nợ tín dụng của toàn hệ thống tăng trưởng bình quân 17,6% trong năm 2015.
Nhiều sản phẩm chuyên biệt cho doanh nghiệp
Trên thực tế, để đảm bảo an toàn kinh doanh cho cả khách hàng và ngân hàng, các ngân hàng lớn gần như đều có những điều kiện cho vay đối với doanh nghiệp tương tự như nhau. Tuy nhiên hiện nay, sự khác biệt của các tổ chức nằm ở cách thức tiếp cận thị trường để đưa vốn đến tay khách hàng.
Trên thị trường, vài năm qua đã lần lượt xuất hiện những sản phẩm chuyên biệt theo từng ngành nghề, từng lĩnh vực kinh doanh để hỗ trợ doanh nghiệp toàn diện, đi đầu phải kể đến các sản phẩm tài trợ trọn gói doanh nghiệp ngành nhựa, dược và vật tư y tế, giấy, may mặc, phụ trợ dầu khí, xăng dầu,... của Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank).
Thị trường đ.ánh giá các sản phẩm này đều được thiết kế linh hoạt, ưu tiên quan tâm nhiều đến phương án kinh doanh hơn là tài sản đảm bảo mà vẫn bảo vệ được an toàn tín dụng bằng hệ thống quản trị rủi ro chặt chẽ.
Ông Nguyễn Đăng Thanh, Giám đốc Khối Khách hàng Doanh nghiệp Techcombank cho biết: "Các sản phẩm chuyên biệt của Techcombank được xây dựng trên cơ sở ngân hàng chủ động tiếp cận khách hàng để cung cấp các giải pháp tài chính hiệu quả đáp ứng được nhu cầu thiết thực của doanh nghiệp. Chúng tôi chú trọng thiết lập các mối quan hệ sâu sắc và lâu dài với khách hàng, hiểu đặc thù của khách hàng để đưa ra các tư vấn và quy trình xử lý nghiệp vụ chuẩn xác hơn, đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp cũng như kết quả kinh doanh của ngân hàng".
Hiện nay, Techcombank tiếp tục triển khai nhiều sản phẩm cho vay doanh nghiệp, trong đó có những sản phẩm chuyên biệt theo ngành, chủ yếu tập trung các ngành kinh tế trọng điểm để đảm bảo an toàn kinh doanh và đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Năm 2014, dư nợ cho vay khách hàng doanh nghiệp của Techcombank tăng 14,3% so với năm 2013. Năm nay, lạc quan về tăng trưởng tín dụng, Techcombank đặt chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng tới 30%, cao hơn so với mức tăng trưởng bình quân 17,6% mà các tổ chức tín dụng kỳ vọng.
Doãn Phong
Theo_VietNamNet
Vốn ngân hàng làm “nóng” bất động sản? Tín dụng toàn hệ thống ngân hàng đến thời điểm này tăng trên 12%. Lãi suất huy động tăng nhẹ tại một số nhà băng và có dấu hiệu huy động ít hơn cho vay ra. Xuất hiện cảnh báo tăng trưởng tín dụng nóng, nhất là dòng t.iền đang đổ vào bất động sản (BĐS). Đủ gói vay giá rẻ Từ nay...