Cuồng và chán ăn: Hai cực rối loạn cần được cân bằng
Dinh dưỡng là nguồn năng lượng quan trọng đối với sức khỏe con người nói chung. Thông qua bữa ăn, các thành phần dinh dưỡng trong thực phẩm góp phần nuôi dưỡng thể trạng, cải thiện tâm lý của con người.
Nếu cơ thể được ví như một loài cây, thì tinh thần chính là hoa là quả của loài cây ấy.
Cây chỉ có thể đơm hoa kết trái khi cây được tươi tốt. Tinh thần con người trở nên lành mạnh khi được nuôi dưỡng bởi một cơ thể khỏe mạnh.
Dinh dưỡng là nhu cầu tất yếu của cơ thể, khi cơ thể được cung cấp đầy đủ dinh dưỡng, phù hợp với thể trạng, sức khỏe sẽ được bảo đảm tốt, giúp kiểm soát sức khỏe và bệnh tật. Sự bất cập trong chế độ dinh dưỡng như ăn quá nhiều, ăn quá ít, ăn mất cân đối… đều có thể tạo ra những tác động tiêu cực đến sức khỏe con người.
Ăn quá nhiều gây nên tình trạng thừa cân, béo phì, các rối loạn chuyển hóa như rối loạn mỡ máu, đái tháo đường… Ăn quá ít khiến cơ thể không được cung cấp đầy đủ các nguồn dưỡng chất, thiếu cân, giảm sức khỏe, thể trạng và triệt tiêu sức đề kháng.
Các chuyên gia dinh dưỡng cho rằng, thực phẩm có mối quan hệ mật thiết với một số trạng thái tâm lý khác nhau, có ảnh hưởng đối với sức khỏe, tinh thần con người. Thực phẩm con người tiêu thụ cần phù hợp với đặc điểm nhóm máu (A, B, O, AB), để đáp ứng tốt nhất cho sức khỏe thể chất và tinh thần.
Yếu tố tinh thần, tâm lý…, cũng có thể gây nên những rối loạn ăn uống đối với con người.
Cuồng ăn: Một dạng rối loạn ăn uống liên quan đến vấn đề tâm lý, tinh thần, còn gọi là hội chứng “ăn vô độ tâm thần”. Những người mắc phải bệnh này thường không thể ngừng ăn và luôn luôn ăn một lượng lớn thức ăn trong một thời gian ngắn.
Hội chứng cuồng ăn là nguyên nhân chính gây ra việc dư thừa dinh dưỡng, tăng cân, béo phì, ảnh hưởng đến nhiều bệnh lý khác như huyết áp, tim mạch, đái tháo đường, hô hấp, chuyển hóa… Tăng tỷ lệ tử vong so với người có thể trạng bình thường.
Video đang HOT
Phân biệt rối loạn cuồng ăn và người ăn nhiều hơn so với người bình thường có thể thực hiện thông qua việc thăm khám lâm sàng, quan sát hành vi ăn cũng như kiểm tra các dấu hiệu tinh thần có liên quan. Người ăn nhiều, dù tiêu thụ một lượng lớn thực phẩm, nhưng vẫn có sự điều độ (ăn khi đói, khi căng thẳng…).
Người cuồng ăn thường có tình trạng ăn thiếu kiểm soát, ăn vô độ, không đói, không căng thẳng vẫn thích ăn. Cuồng ăn là một rối loạn tâm thần, ngoài hành vi cuồng ăn, bệnh nhân thường có các dấu hiệu liên quan khác như bất thường về cảm xúc, hành vi, tư duy; các bác sĩ tâm thần, tâm lý có thể kiểm tra và nhận ra thông qua thăm khám.
Chán ăn: Ở chiều hướng ngược lại của cuồng ăn, đó là hội chứng “chán ăn tâm thần”. Ở mức độ nghiêm trọng, có thể gây suy kiệt cho cơ thể, ảnh hưởng đến sức khỏe, sinh hoạt thậm chí là tính mạng. Vấn đề này có thể bắt đầu từ hành vi nhìn ăn giữ vóc dáng có chủ đích để rồi chuyển sang trạng thái chán ăn và gây ra chán ăn.
Về tâm lý, khi có chủ đích cố gắng thực hiện một hành vi, thì sau khoảng 3 tuần sẽ hình thành một thói quen. Để thay đổi một thói quen, cũng cần khoảng 3 tuần để thực hiện.
Trong vấn đề chán ăn, ở giai đoạn đầu, người bệnh có chủ đích ăn, dẫn đến việc giảm lượng thực phẩm tiêu thụ, thông qua việc thay đổi chế độ ăn, giảm lượng thực phẩm, cơ thể dần có sự thích ứng với thói quen ăn uống mới, từ đó hình thành tính cách ăn. Sự thích ứng này còn diễn ra đối với các đơn vị tham gia vào quá trình tiêu hóa, thông qua việc thay đổi tín hiệu dẫn truyền, giảm lượng tiết dịch tiêu hóa, thay đổi khả năng vận chuyển, hấp thu, chuyển hóa…, khiến cơ thể thích nghi với giai đoạn này.
Sợ ăn: Một dạng rối loạn ăn, chủ yếu liên quan đến vấn đề tâm lý. Người mắc chứng sợ ăn thường lo ngại, không dám ăn do sợ thực phẩm không an toàn, lo sợ thực phẩm có thể ảnh hưởng đến sức khỏe, không tốt cho cơ thể … Ngoài ra, còn có một số vấn đề do sự sai lầm trong quan niệm ăn uống như “ăn uống thải độc”, “ăn thực dưỡng trị ung thư”… dẫn đến sự suy kiệt nghiêm trọng của cơ thể.
Các vấn đề rối loạn ăn uống có thể do nhiều nguyên nhân từ bệnh lý tâm thần, vấn đề tâm lý, thói quen, hành vi. Để khắc phục triệt để các vấn đề này, phải xác định đúng nguyên nhân để có biện pháp điều trị phù hợp, cần kết hợp nhiều phương pháp, tùy vào mỗi giai đoạn khác nhau. Nếu rối loạn ăn uống của bệnh nhân đến từ các vấn đề tâm thần thì cần có sự điều trị từ bác sĩ chuyên môn, thông qua thuốc cũng như các liệu pháp chuyên khoa.
Khi bệnh tâm thần cải thiện thì vấn đề rối loạn ăn uống cũng có thể được kiểm soát, nếu vấn đề rối loạn của bệnh nhân đến từ các yếu tố tâm lý như căng thẳng, lo âu… thì các biện pháp điều chỉnh tâm lý để thay đổi nhận thức sẽ hữu ích. Mặt khác, cần điều chỉnh thay đổi thói quen, hành vi, chế độ dinh dưỡng. Có thể thay đổi hành vi cuồng ăn bằng một hành vi thay thế như tập trung tư duy, chơi thể thao… để kiểm soát hành vi này.
Chán ăn tâm thần còn gặp nhiều khó khăn hơn trong điều trị, bệnh nhân gặp nhiều vấn đề bệnh lý do hậu quả từ dinh dưỡng kém, hệ thống các cơ quan suy kiệt đi kèm việc chán ăn. Cần có sự can thiệp từ nhiều chuyên khoa như tâm lý, dinh dưỡng, tâm thần, bệnh lý liên quan… Cũng như sự hỗ trợ từ gia đình và sự phối hợp từ chính bệnh nhân, để dần trở lại thói quen ăn, nhằm lấy lại sự cân bằng cho cơ thể.
Dinh dưỡng là một trong những yếu tố tiên quyết của một cơ thể sống, ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe con người. Để có một cơ thể tráng kiện, một tinh thần khỏe mạnh, cần duy trì thói quen ăn uống lành mạnh, để tránh những tác động tiêu cực do rối loạn ăn uống mang đến.
Theo phân tâm học, việc giải tỏa căng thẳng thông qua hành vi ăn đã đươc hình thành từ khi còn nhỏ, thông qua hành vi khóc => cho bú mẹ => ngưng khóc hoặc khóc => cho ăn => ngưng khóc. Điều này tạo nên cung phản xạ có điều kiện khi có vấn đề khó chịu, căng thẳng. Ăn sẽ giúp giải tỏa, tạo nên phản xạ ăn để “an toàn”, mỗi khi xảy ra căng thẳng. Điều này lý giải cho việc một số người thường có tình trạng ăn vặt khi gặp căng thẳng hay stress trong công việc, cuộc sống.
Người mắc bệnh vảy nến đối mặt với nhiều rối loạn chuyển hóa
Ngoài những tổn thương trên da gây mất thẩm mỹ người mắc bệnh vảy nến còn đối mặt với nhiều rối loạn chuyển hóa. Kiểm soát sớm bệnh vảy nến là giải pháp bác sĩ khuyến cáo để tránh biến chứng.
Theo thống kê của Bệnh viện Da Liễu TPHCM, mỗi năm tại đây tiếp nhận khoảng 50.000 lượt bệnh nhân vảy nến đến khám và điều trị. Người bệnh đến thăm khám thường có biểu hiện trên làn da xuất hiện các mảng đỏ có vảy trắng, dày với nhiều lớp xếp chồng lên nhau rất dễ bong giống với giọt nến.
Bệnh vảy nến gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe
Các vị trí hay gặp nhất là các vùng như khuỷu tay, đầu gối, rìa tóc, vùng xương cùng, mông. Những bệnh nhân bị tổn thương móng trong do vảy nến khiến móng bị ngả màu vàng đục, có chấm lỗ trên bề mặt, móng dày, dễ gãy dẫn tới mất móng. Các bệnh nhân bị vảy nến đóng ở khớp thường bị viêm khớp mạn tính biến dạng khớp, cứng khớp, lệch khớp, bệnh nhân cử động đi lại rất khó khăn.
Nhiều bệnh nhân sau một thời gian tiến triển các tổn thương lan ra toàn thân gây đau, rát, khó chịu khiến người bệnh trở nên tự ti, mặc cảm với bản thân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng sống. Đặc biệt, hiện nay bác sĩ đã phát hiện các rối loạn chuyển hóa kèm theo vảy nến như rối loạn mỡ máu, tăng huyết áp, béo phì, xơ vữa động mạch... Đây chính là những yếu tố nguy cơ tim mạch nguy hiểm cho người bệnh.
Tiến sĩ - Bác sĩ Nguyễn Trọng Hào, Giám đốc Bệnh viện Da Liễu TPHCM cho biết vảy nến là một bệnh lý viêm mạn tính qua trung gian miễn dịch, có liên quan tới gen di truyền, biểu hiện ngoài da hoặc khớp, hay cả da và khớp. Thương tổn đặc trưng là mảng da màu đỏ, giới hạn rõ, bề mặt có vảy trắng, dễ tróc, thường xuất hiện ở da đầu, đầu gối, cùi chỏ và thân mình. Ngoài ra thương tổn cũng có thể xuất hiện ở bất cứ vị trí nào của cơ thể như móng, lòng bàn tay, lòng bàn chân, vùng sinh dục và mặt...
Người bị vảy nến cần thăm khám, điều trị sớm để tránh biến chứng nguy hiểm
Trong hầu hết các trường hợp, vảy nến diễn tiến lành tính, bệnh nhân có thể sống chung với bệnh mà không có ảnh hưởng đáng kể về mặt sức khỏe ngoại trừ ảnh hưởng đến tính thẩm mỹ. Tuy nhiên, cần lưu ý một số bệnh kèm theo xuất hiện trước, trong hoặc sau khi khởi phát vảy nến như hội chứng chuyển hóa, bệnh tim mạch... Do đó bệnh nhân cần được theo dõi, hỗ trợ điều trị sớm để tránh các biến chứng nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng.
Trước đây, bệnh vảy nến không có phương pháp điều trị hiệu quả. Tuy nhiên, với sự phát triển của y học, những giải pháp hỗ trợ điều trị cho bệnh nhân vảy nến đã mang lại nhiều khả quan. Bác sĩ Nguyễn Trọng Hào cho biết, khoảng 20 năm gần đây, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhiều yếu tố liên quan đến sinh bệnh học vảy nến đã được phát hiện. Từ đó, phương pháp điều trị vảy nến bằng các thuốc sinh học đã ra đời (Biologics).
Bằng cách ức chế những thành phần đặc hiệu của hệ thống miễn dịch, thuốc sinh học sẽ giảm thiểu tác động lên các tế bào của những cơ quan khác, từ đó hạn chế các tác dụng không mong muốn do vảy nến gây ra. Với những loại thuốc sinh học điều trị vảy nến như Infliximab, Adalimumab, Ustekinumab, và Secukinumab các bác sĩ đã có những chọn lựa an toàn và hiệu quả hơn cho bệnh nhân vảy nến.
Theo bác sĩ Trọng Hào, trong quá trình điều trị, bệnh nhân cần hiểu rõ tình trạng bệnh của mình, biết cách tự chăm sóc, tránh các yếu tố khởi phát hoặc làm bệnh nặng hơn, tuân thủ và hợp tác tốt với bác sĩ nhằm mang lại kết quả điều trị tốt nhất.
Nhân Ngày Vảy nến thế giới (29/10), Bệnh viện Da Liễu sẽ tổ chức chương trình tư vấn miễn phí "Bệnh vảy nến: Kiểm soát sớm những tổn thương không chỉ ở làn da". Người tham dự có thể đăng ký qua số điện (028) 39308131 (ấn phím 148 để đăng ký). Chương trình diễn ra lúc 8 giờ 30 đến 11 giờ, ngày 25/10/2020 tại Hội trường A, lầu 2, khu A (Số 02 Nguyễn Thông, Phường 6, Quận 3, TP.HCM). Các bác sĩ tư vấn và chia sẻ về ảnh hưởng của bệnh vảy nến lên tim mạch và phương pháp điều trị hiện nay.
Người Việt phải chung sống với bệnh tật bao nhiêu năm trong cuộc đời? Theo chuyên gia, người Việt có tuổi thọ cao so với nhiều nước. Tuy nhiên, chất lượng sức khỏe khi về già thấp. Người Việt có tuổi thọ cao nhưng sức khỏe thấp Theo ông Nguyễn Hồng Quân, Chủ tịch Hội Giáo dục Chăm sóc Sức khỏe Cộng đồng Việt Nam, người cao tuổi chiếm tới gần 12% dân số nước ta, dự...