Cuốn “Đường Kách mệnh”: Soi rọi ánh sáng cho Cách mạng Việt Nam
Trong số những bảo vật quốc gia được công nhận đợt 1 vừa qua, có không ít những văn bản mang tính tư liệu, trong đó đáng chú ý là cuốn “Đường Kách Mệnh”.
Sinh ra trong bối cảnh đất nước đang chịu ách áp bức của thực dân Pháp, đồng thời chứng kiến sự thất bại liên tiếp của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp đầu thế kỷ XX. Điều đó đã thôi thúc Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước vào năm 1911, trong chuyến hành trình đó Người đã tiếp thu tư tưởng cách mạng vô sản chủ nghĩa Mác – Lênin. Năm 1924, Người về Quảng Châu, Trung Quốc chọn nơi này là điểm dừng chân để hoạt động cách mạng. Tại đây, Người đã thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (tháng 6-1925), mở lớp Huấn luyện chính trị, ra Báo Thanh niên, truyền giảng cho đội ngũ cán bộ cốt cán đầu tiên của Việt Nam những nội dung cơ bản của học thuyết Mác – Lênin, để chuẩn bị cho sự ra đời một chính Đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam. “Đường Kách Mệnh” tập hợp những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh giảng tại lớp Huấn luyện chính trị trong những năm 1925-1927, do Bộ Tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông xuất bản ở Quảng Châu và bí mật chuyển về nước theo nhiều ngả đường khác nhau trong phong trào vô sản hóa (1927-1930), Chính từ đây phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam đã bước đầu đi vào có tổ chức, các hoạt động đấu tranh phát triển đi từ tự phát lên tự giác.
Đây là tài liệu in thạch và do tác giả trực tiếp viết bản in. Cuốn sách gồm 100 trang, được in trên giấy nến bằng kỹ thuật in Litô, với kích thước 22×15cm, trang bìa lót có kích thước 15×20cm đã ngả màu vàng. Cuốn sách hiện được bảo quản trong két chân không tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia ngay từ những ngày đầu bảo tàng được thành lập. Ngày 3-2-2010, lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất cho tới nay, Bảo tàng Lịch sử quốc gia (Bảo tàng Cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ) đã cho trưng bày bản gốc cuốn “Đường Kách Mệnh”. Bản hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia là bản phục chế.
Theo ANTD
Bộ đồ ăn trầu của tầng lớp quý tộc Việt
Khoảng 100 hiện vật, tài liệu và hình ảnh tiêu biểu liên quan tới tập tục ăn trầu truyền thống của người Việt vừa được lựa chọn giới thiệu trong triển lãm 'Văn hóa Trầu cau Việt Nam' tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia sáng 24/10.
Tục ăn trầu ở Việt Nam có từ lâu đời và để tận hưởng cái thú này, người ăn trầu cũng phải thực hiện một loạt công đoạn khá cầu kỳ, bằng bộ dụng cụ gồm bình vôi, ống vôi, xà tích, chìa vôi dao bổ cau têm trầu khay, cơi, hộp, âu, giỏ, tráp, túi, khăn, đẫy ống nhổ cối, chìa ngoáy. Với tầng lớp quý tộc cung đình triều Nguyễn, bộ đồ ăn trầu thường được làm bằng vàng, bạc, đồng....
... hoặc pha lê, kim sa hay ngọc.
Bình vôi quai hình buồng cau làm từ gốm Hoa Lam đầu thế kỷ 20 dùng để đựng vôi, lấy vôi têm trầu. Đây là vật dụng không thể thiếu và giữ vai trò quan trọng. Cũng như các loại vật dụng khác, bộ dụng cụ ăn trầu thể hiện rõ đẳng cấp người sử dụng.
Video đang HOT
Ống vôi được làm bằng bạc và đồng với nhiều hình thù khác nhau.
Ống vôi và hộp thuốc lào thường được chủ nhân đeo vào người để tiện dùng mỗi khi cần.
Ống nhổ trạm nổi hình rồng bằng vàng thời Nguyễn dùng để nhổ bỏ nước trầu, bã trầu.
Hộp trầu bằng đồng thời Lê Sơ (thế kỷ 15) dùng để đựng trầu, thuốc và xếp các vật dụng nhỏ.
Cối giã trầu của dân tộc H'rê (hình 1) và Hộp thuốc lào của dân tộc Thái (hình 2) dành cho những người lớn tuổi, răng yếu dùng để giã nát trầu trước khi nhai.
Cách têm trầu cũng thể hiện sự cầu kỳ, tinh tế. Tùy từng hoàn cảnh mà trầu được têm theo mỗi cách khác nhau với ý nghĩa biểu trưng khác nhau: Trầu cánh phượng, cánh kiến, cánh quế, mũi mác. Trong ảnh, nghệ nhân Vũ Thị Tuyết Lan (61 tuổi, ở Bắc Ninh) đang têm trầu cánh phượng mời các vị khách tới thăm triển lãm.
Trầu têm cánh phượng là biểu tượng cho sự duyên dáng, quyến rũ và khéo léo của phụ nữ Việt Nam. Trầu cánh phượng hay còn gọi là trầu quan họ có 11 cánh. Để têm được miếng trầu này, phải chọn quả cau cân hạt, lá trầu bánh tẻ và mỗi miếng trầu được cài thêm cánh hoa hồng. Cách nhai trầu cũng rất cầu kỳ, dùng từ lá trầu, quét một ít vôi đã tôi vào đầu lá trầu kèm theo một miếng cau cho vào miệng nhai nát. Ngoài ra có thể thêm vỏ chay, vỏ quạch, vỏ quế và thuốc lào. Khi nhai, hương vị của hỗn hợp trầu - cau - vôi sẽ làm cho người nhai trầu có cảm giác cay cay và hơi say. Trong lúc nhai trầu, để tẩy cổ trầu và xác trầu bám vào răng, người ta có thể dùng một nhúm nhỏ thuốc lào để chà răng.
Ăn trầu là tập tục truyền thống có từ lâu đời và phổ biến ở nhiều quốc gia châu Á và châu Đại Dương. Tại Việt Nam, tương truyền tục ăn trầu có từ thời Hùng Vương và gắn liền với câu chuyện cổ tích nổi tiếng: Trầu cau. Với người Việt, ăn trầu không đơn thuần chỉ là thói quen, tập tục mà còn là yếu tố cấu thành nên những giá trị văn hóa truyền thống. Trầu cau không chỉ là lễ vật khởi đầu trong các nghi lễ truyền thống như tang ma, cưới hỏi mà còn là biểu tượng của tình yêu đôi lứa, vợ chồng.
Đối với tầng lớp bình dân, bộ dụng cụ này được tạo tác đơn giản bằng những chất liệu dễ kiếm như tre, gỗ, đồng, gốm. Ngược lại, với tầng lớp quý tộc, bộ đồ được làm bằng chất liệu quý, trang trí độc đáo, tinh xảo. Bình vôi trong ảnh được làm từ chất gốm men lục và trắng thời Lê sơ - Mạc, thế kỷ 15-16.
Bình vôi gốm men lam xám có từ thời Mạc, thế kỷ 16. Trong gia đình truyền thống, bình vôi được coi trọng và tôn kính như một vị thần nên được gọi là Ông bình vôi hay Ông vôi, tương tự như Ông Táo trong bếp.
Khi bình vôi đặc ruột hoặc lỡ bị sứt mẻ thì người ta không đem vứt bỏ mà cẩn thận treo xếp ở gốc đa đầu làng.
Bình vôi cũng trở thành những tác phẩm nghệ thuật mang đậm dấu ấn văn hóa Việt. Đây cũng là loại vật dụng duy nhất hiện còn đủ các niên đại khác nhau từ thời Lý - Trần tới nay. Bình vôi làm từ gốm men trắng thời Trần, thế kỷ 13-14.
Ngoài bộ đồ ăn trầu của tầng lớp quý tộc xưa, triển lãm còn trưng bày bộ dụng cụ ăn trầu của nhiều dân tộc như Tày, Chăm, Xơ Đăng...
Dụng cụ để cuộn lá trầu của dân tộc Tày.
Ốc nung vôi ăn trầu của dân tộc Xơ Đăng.
Ống vôi của dân tộc Xơ Đăng.
Túi dùng để trựng trầu, chìa khóa và đồ trang sức của dân tộc Lô Lô, Bảo Lạc, Cao Bằng.
Cối giã trầu của dân tộc Tày.
Không gian tiếp khách trong ngôi nhà Việt đồng bằng bắc bộ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 luôn có sẵn cơi trầu, điếu hút thuốc và bộ đồ trà.
Theo VNE
Giảm lao động cư trú bất hợp pháp ở Hàn Quốc: Tăng mức xử phạt Mới đây, Hàn Quốc đã chính thức thông báo ngừng hạn ngạch tuyển mới lao động Việt Nam trong năm 2012. Điều này khiến hơn 12.000 lao động nước ta sẽ không còn cơ hội sang làm việc. Ngày 12-10, ông Phan Văn Minh, Giám đốc Trung tâm Lao động ngoài nước - Bộ LĐ-TB&XH trả lời báo chí quanh vấn đề này....