Cuộc sống của những đứa trẻ “sống thì nuôi, chết thì phải chịu”
Cuộc sống gần như tách biệt với thế giới bên ngoài nên những trò giải trí đối với những đứa trẻ Đan Lai ở vùng lõi Vườn Quốc gia Pù Mát chỉ là ước mơ xa xỉ. Bởi vậy, đối với chúng, ngày Tết Thiếu nhi cũng chỉ như những ngày bình thường khác mà thôi.
Những đứa trẻ Đan Lai èo uột vì nghèo đói và hủ tục.
Nhắc đến Đan Lai người ta nghĩ ngay đến đói nghèo, lạc hậu, tảo hôn và nhiều hủ tục khác. Đai Lai là một tộc người sinh sống ở vùng lõi Vườn Quốc gia Pù Mát, tập trung chủ yếu bên cạnh dòng sông Giăng (xã Môn Sơn, Con Cuông, Nghệ An). Người Đan Lai còn được biết đến là tộc người “ngủ ngồi” bởi cách hình thành dòng tộc hết sức khốn khó và đau thương của họ.
Sống ở vùng lõi Vườn Quốc gia Pù Mát, sống giữa thiên nhiên giàu có và hào phóng nhưng người Đan Lai vẫn nghèo. Cái nghèo, cái đói cứ như sợi dây vô hình, nối từ thế hệ này qua thế hệ khác. Và người chịu tác động mạnh mẽ nhất bởi cái nghèo vẫn là những đứa trẻ vừa sinh ra đã phải chịu thử thách qua dòng nước Khe Khặng dù bất kể mùa đông hay mùa hè. Thiếu kiến thức, thiếu thuốc men nên người Đan Lai vẫn duy trì cách “phòng bệnh” không giống ai ấy chăng? Tôi vẫn còn ám ảnh bởi câu
trả lời của cụ La Thị Mếnh (83 tuổi, bản Khe Búng): “Đứa trẻ Đan Lai nào sinh ra cũng phải nhúng xuống nước lạnh. Đứa nào sống thì nuôi, chết thì phải chịu”.
Quần áo, giày dép đối với các cháu đôi khi là những thứ xa lạ.
Vượt qua hàng chục cây số đường đèo dốc, lội qua 5 khe suối, chúng tôi mới vào được bản Khe Búng – nơi tận cùng của người Đan Lai ở Môn Sơn. Dù bao bọc trong hệ sinh thái xanh mướt của Khu dự trữ sinh quyển miền Tây Nghệ An nhưng thời tiết vẫn khá nắng nóng. Những đứa trẻ Đan Lai lê la chơi đất ở trước nhà, thấy người lạ liền xô nhau chạy vào nhà rồi ngó đôi mắt to, đen láy nhìn ra cười khúc khích.
Món quà vặt của chúng đơn giản là những thứ quả dại trong rừng.
Mặt trời lên chói chang, nắng như đội lửa lên mái đầu khiến những vị khách như chúng tôi hoa hết cả mắt. Ấy vậy mà những đứa trẻ Đan Lai vẫn đầu trần, thậm chí là trần truồng chạy nhảy dưới nắng. Chơi chán, chúng kéo nhau nhảy ùm xuống khe vùng vẫy. Liệu có phải được thử thách với thiên nhiên khắc nghiệt ngay từ khi mới lọt lòng mà dường chẳng có gì có thể quật ngã chúng?
Trẻ con ở Đan Lai có lẽ chẳng lạ gì những đoàn khách vẫn đến bất chợt như thế này nữa. Cứ đều đặn mỗi năm, hết các đoàn công tác của huyện, của tỉnh lại có dăm ba đoàn từ thiện từ dưới Tp Vinh lên. Lần nào đến, trên vai các vị khách cũng đầy quần áo, bánh kẹo và sách vở.
… hay chỉ là gói xúp mì tôm.
Sách vở không thiếu, đi học hoàn toàn miễn phí, ở bản có hẳn điểm trường khang trang ấy vậy nhưng cái sự học ở nơi tận cùng con sông Giăng này chẳng hề “xuôi chèo mát mái”. Rất nhiều trẻ con Đan Lai chỉ học đến hết lớp 5 rồi nghỉ. Muốn học lên cao phải ra trung tâm xã cách đó đến non 30 cây số đường đèo dốc, đi bộ cũng mất cả ngày đường. Mà chúng đi học rồi, ai ở nhà trông đàn em trứng gà trứng vịt? Bởi vậy con chữ nhọc nhằn có được lại trôi tuột xuống dòng Khe Khặng, còn chúng lại rơi vào cảnh tái mù chữ.
Đẻ dày, đẻ nhiều khiến những đứa trẻ Đan Lai không đủ cơm ăn, áo mặc. Trong ảnh là 5 trong 6 đứa con của bà mẹ 29 tuổi La Thị N.
Video đang HOT
Căn nhà của bà mẹ trẻ La Thị N. (điểm lẻ bản Cồn) nằm sát đường đi. N. nằm trên giường, ngó mắt qua cửa sổ, chẳng biết đang nghĩ gì. Dưới đất, hai đứa trẻ lê la chơi với nhau. N. năm nay 29 tuổi nhưng có tận 6 đứa con, đứa nọ cách đứa kia nửa cái đầu. Giữa mùa hè, con của N. đứa thì chẳng có quần mà mặc, đứa thì mặc cái áo cổ lọ nhìn đến phát sốt nhưng điểm giống nhau là đứa nào cũng đen cháy, khuôn mặt lem luốc nhìn đến tội.
Còn đây là 3 đứa con của bà mẹ 18 tuổi La Thị T.
Hỏi N. sao đẻ nhiều thế, cô chỉ cười. Hỏi con học lớp mấy rồi, N. trả lời “Nả biết” (không biết – PV). Như bao nhiêu phụ nữ Đan Lai khác, N. chỉ việc lấy chồng rồi đẻ, nuôi con, hết đứa này đến đứa khác còn gánh vác kinh tế là chuyện của chồng. Bởi vậy nhà N. chưa năm nào thoát khỏi cảnh thiếu đói. Và tất nhiên, những đứa con của N.cũng chẳng biết đến bữa ăn no, biết đến quần áo đẹp.
Tôi nhớ những lời tâm sự buồn rầu của La Thị L. (SN 1998, bản Khe Búng). L. lấy chồng năm 14 tuổi. 15 tuổi sinh con gái đầu lòng, hiện giờ chuẩn bị sinh đứa thứ 2. 6 tháng tuổi, con của L. đã biết ăn dặm nhưng thức ăn dặm của nó là sắn luộc. L. cứ bóp vụn mẩu sắn ra đút vào miệng con, đứa bé cứ lừa đi lừa lại thứ thức ăn ấy trong miệng rồi nuốt vào dạ dày và cứ thế lớn lên.
Tách biệt với thế giới bên ngoài nên trò chơi duy nhất của những đứa trẻ Đan Lai là trông em giúp mẹ.
“Bé có được uống sữa không?” – tôi hỏi, L. cười buồn “không chị ạ”. Mới nhỏ xíu thế mà cho ăn sắn, không sợ nó say à? – “Không can chi mô. Nó ăn từ hồi bé mà. Bố mẹ ăn được thì nó ăn được thôi”. Cái triết lý “bố mẹ ăn được thì con ăn được” khiến con gái của L. và rất nhiều đứa trẻ Đan Lai mà tôi gặp đều “bụng ỏng đít beo” duy chỉ có đôi mắt – đôi mắt ám ảnh những ai từng đặt chân đến đây – đôi mắt đen thăm thẳm với hàng mi dài rợp, ngơ ngác và lạ lẫm với tất cả những thứ từ bên ngoài vào.
Những đứa trẻ Đan Lai lớn lên bằng sắn hoặc cháo trắng.
Khi các sự ăn còn chưa đủ thì vui chơi là từ quá xa xỉ với những đứa trẻ Đan Lai. Trò chơi duy nhất của chúng có lẽ là trông em giúp mẹ. Cả anh lẫn em lê la trên nền đất, cào vào đống đất mủn tung tóe rồi cười như nắc nẻ. Thỉnh thoảng bố mẹ cũng mua cho ít cái kẹo, thứ kẹo lạ mắt mà dưới xuôi tôi không thấy bao giờ nhưng ngọt lừ đường hóa học. Cũng chẳng sao, có lẽ chúng chỉ cần cái vị ngọt để đánh lừa cảm giác và sung sướng với thứ quà hiếm hoi mới có ấy.
Điểm trường tiểu học được xây dựng ngay trong bản nhưng sự học của trẻ con Đan Lai vẫn đang hết sức nan giải và nguy cơ tái mù cao.
Thỉnh thoảng những ngày Tết thiếu nhi hay Tết Trung thu, một vài đoàn tình nguyện vượt đèo, vượt khe “cõng” quà vào cho trẻ em Đan Lai. Hôm đó, chúng sẽ được thưởng thức những chiếc kẹo thơm ngon hơn những thứ bố mẹ hiếm hoi mới mua cho ở quán tạp hóa đầu bản hay những thứ đồ chơi xinh xinh biết phát ra nhạc. Tiệc tan, khách về, kẹo cũng hết, những đứa trẻ Đan Lai lại trở về với sự trầm mặc của núi rừng, của thiếu thốn và nghèo đói.
Nụ cười vô tư của một đứa trẻ Đan Lai dù em thậm chí không có áo để mặc.
Rời nơi ở của người Đan Lai, thấy thương sao những đôi mắt trẻ thơ trong veo ngơ ngác, những khuôn mặt lem luốc, những đứa trẻ lũn cũn đen cháy và những cơ thể èo uột không có nổi quần áo để che chắn dù là đông hay hè…
Hoàng Lam
Theo Dantri
Tộc người "ngủ ngồi" ở Nghệ An: Lấy chồng từ thuở... 12
Phụ nữ Đan Lai lấy chồng rất sớm, đàn ông Đan Lai lấy vợ chẳng quan tâm xem vợ bao nhiêu tuổi, cứ "thương nhau thì lấy". Bí thư chi bộ Lê Văn Báo lắc đầu "Chịu thôi. Chúng ưng nhau là lấy, từ lâu đời như thế rồi, không ngăn cấm được".
18 tuổi, La Thị Thiện đã là mẹ của 3 đứa con, đứa lớn nhất 6 tuổi, đứa bé nhất lên 3.
Chúng tôi vượt qua bản Cò Phạt, điểm lẻ bản Cồn để đến với bản Khe Búng - nơi tận cùng của người Đan Lai nơi sâu thẳm của già Pù Mát. Pù Mát tiếng Thái có nghĩa là những con dốc cao. Để vào được nơi sinh sống của đồng bào Đan Lai nơi thượng nguồn sông Giăng phải vượt qua hàng chục ngọn đèo, vượt qua 5-6 con suối. Bởi vậy, cuộc sống của người Đan Lai nơi đây vẫn khá tách biệt với thế giới bên ngoài. Người Đan Lai vẫn tồn tại nhiều hủ tục lạc hậu, trong đó, nhức nhối nhất vẫn là tục tảo hôn.
Người Đan Lai chủ yếu sinh sống dựa vào nương rẫy. Tuy nhiên, khu vực này thuộc vùng lõi vườn Quốc gia Pù Mát, việc phá rừng làm nương rẫy bị cấm tuyệt đối, đồng bào chủ yếu canh tác trên những ruộng lúa ít ỏi ven các con suối. Ở nơi thâm sơn cùng cốc này chưa có sóng điện thoại, chưa có điện lưới. Đài bán dẫn hoặc ti vi là thứ nối họ với thế giới bên ngoài. Tuy nhiên, nguồn điện phập phù từ tua pin phát điện đặt dọc con suối khiến tuổi thọ của các thiết bị điện tử này không cao. Đồng bào sắm ti vi chủ yếu để xem phim, chẳng mấy ai quan tâm đến việc tiếp thu các tiến bộ từ bên ngoài. Người Đan Lai vẫn sống bản năng, hồn nhiên như cây cỏ giữa rừng.
Đi qua những bản làng của người Đan Lai tôi bị ám ảnh bởi ánh mắt của những bà - mẹ - trẻ - con. Những đứa trẻ chưa kịp lớn đã phải đi làm vợ rồi làm mẹ. Vất vả, cực khổ, thiếu thốn đè nặng trên đôi vai, khiến những đứa trẻ này chưa kịp lớn đã toan về già. Những đôi mắt u uất, những khuôn mặt xám xịt, khắc khổ khiến tương lai của họ càng mờ mịt tối tăm hơn.
Không ai nghĩ Thiện chưa đầy 20 tuổi...
Ba đứa trẻ mặc độc cái quần lê la chơi trên nền đất trước nhà. Thấy người lạ, chúng ù té chạy vào nhà núp rồi cười ré lên. Thấy có khách, một người phụ nữ bước vào. La Thị Thiện (bản Cồn, Môn Sơn, Con Cuông, Nghệ An) - mẹ của ba đứa trẻ lần lượt 6 tuổi, 4 tuổi, 3 tuổi. Nếu Thiện không bảo năm nay cô 18 tuổi, tôi cứ ngỡ người phụ nữ đứng trước mặt mình phải gần 40 tuổi.
Tính ra, Thiện sinh đứa con đầu lòng khi... 12 tuổi. Chồng đi làm nứa, Thiện ở nhà trông 3 đứa con nhỏ. Những đứa trẻ chẳng có nổi chiếc áo để mặc, đánh trần, đen trũi và bụng đứa nào cũng ỏng ra. Thằng bé đầu năm nay đã lên lớp 1 nhưng nó vẫn ở nhà nghịch đất với em. Hỏi, sao không cho con đi học, Thiện chỉ cười trừ...
Những đứa trẻ con của Thiện lớn lên như cây cỏ trong thiếu thốn và nghèo đói.
17 tuổi, La Thị Lá (SN 1998, trú bản Khe Búng, Môn Sơn) đang mang bầu lần thứ hai được 5 tháng rưỡi. Lá lấy chồng năm 2012, khi đó mới gần 14 tuổi, chồng em là La Văn Nem khi đó 18 tuổi, ở cùng bản. "Có biết yêu đâu. Bố em mất sớm, mẹ bảo lấy chồng thì em lấy chồng thôi", Lá nói về việc mình lấy chồng đơn giản như thế.
14 tuổi, Lá đã biết gì đâu. Về nhà chồng được gần 1 tuần lễ vẫn không cho chồng ngủ cùng. Sau, bà mối phải phân tích, dỗ dành mãi Lá mới chịu ngủ cùng chồng. 15 tuổi, Lá sinh đứa con đầu lòng. 17 tuổi, Lá sắp là mẹ của hai đứa con. Cơ thể chưa kịp lớn của em đã trở nên xồ xề bởi sinh nở và mang thai.
"Em đau đẻ từ đêm mà mãi đến chiều hôm sau mới đẻ. Chồng và mẹ chồng đưa ra Trạm xã xã để sinh. Đau khủng khiếp luôn, hộ sinh bảo vì em còn ít tuổi quá", Lá thật thà nói. Do không có kinh nghiệm nên khi con bé mới được hơn 1 tuổi, Lá mang bầu đứa thứ hai.
17 tuổi, La Thị Lá đã sắp là bà mẹ của hai đứa con.
Hỏi, có đẻ nữa không. Lá cười: "Đẻ chứ. Đẻ đến khi nào có con trai thì thôi. Mẹ chồng với chồng nói thế. Hôm trước ra thị trấn siêu âm, họ bảo đứa thứ hai cũng là con gái". Tôi nén tiếng thở dài. Lá sinh con rồi mang thai, chỉ quanh quẩn ở nhà, chồng Lá đi làm sắn, làm nứa chẳng đủ nuôi mấy mẹ con nên tiếng là vợ chồng trẻ nhưng vợ chồng Lá thiếu ăn quanh năm.
Bà Lê Thị Nàng - mẹ chồng Lá cười: "Ồ, nó còn bé quá, về nhà cái chi cũng phải bày hết. Chúng nó thương nhau thì cho lấy thôi, không ngăn cấm được". Bà Nàng cũng mới sinh con. Đứa con út của bà cũng chỉ hơn đứa cháu nội 2 tuổi.
"Lấy chồng sớm thế có khổ không?" - "Khổ", Lá trả lời. "Có vất vả không? - Vất vả". "Thế sau này có cho con gái lấy chồng sớm không? - tôi hỏi. Lá cười: "Nả biết" (Không biết - PV). Tiếng trả lời của Lá như rơi tõm vào cái nắng hoe hoắt của rừng già.
Cô dâu mới của bản Khe Búng cũng có tên là La Thị Lá. Lá mới lấy chồng đầu năm nay, khi vừa bước sang tuổi 15. Hỏi chồng tên gì, Lá bảo tên Tiến nhưng tôi tìm trong hộ khẩu, chàng trai này tên là La Văn Cười (SN 1994). Hỏi chồng bao nhiêu tuổi, Lá lắc đầu "Nả biết". Hỏi chồng Lá vợ bao nhiêu tuổi, chàng trai này cũng lắc đầu "Nả biết". Hỏi không biết tuổi mà cũng cưới nhau, không sợ bị phạt à, Tiến trả lời: "Thương nhau lâu rồi thì cưới thôi. Không thấy ai phạt nhưng chưa đi đăng ký kết hôn".
Đưa vấn đề này trao đổi với ông Lê Văn Báo - Bí thư chi bộ bản Khe Búng, ông Báo nói: "Không cấm được. Người Đan Lai lấy vợ lấy chồng sớm từ xưa rồi mà. Chúng thương nhau thì cho lấy thôi. Ngày xưa có ai ngăn cấm mình đâu mà giờ mình cấm chúng nó".
Tục cưới lại của người Đan Lai
Người Đan Lai kết hôn sớm nhưng mỗi cuộc hôn nhân đều phải trải qua 2 lần cưới. Nếu không được cưới lại, những cô dâu mới mãi mãi là người ngoài, không được phép đến quét dọn ở bàn thờ tổ tiên nhà chồng.
Cô bé La Thị Lá mới về làm dâu nhà ông La Văn Hoài (SN 1949) được vài tháng.Cũng như tất cả những cô gái mới về nhà chồng khác, Lá chỉ được phép quanh quẩn từ bếp vào phòng riêng của vợ chồng mình và chái nhà đồng thời cũng là nơi rửa ráy của cả gia đình.
Cô dâu mới của bản Khe Búng - La Thị Lá. Lá đi làm dâu khi mới bước sang tuổi 15.
"Con gái mới về nhà chồng, dù được cưới hỏi đàng hoàng cũng chưa được tính là thành viên chính thức của gia đình. Do vậy, con dâu mới không được lau chùi, quét dọn bàn thờ tổ tiên, thậm chí, không được ngồi quay lưng lại phía bàn thờ - là nơi thiêng liêng nhất của người Đan Lai", ông La Văn Hoài nói.
Sau khi cưới một năm rưỡi đến 3 năm, người Đan Lai sẽ tổ chức lễ cưới lại. Sau khi thực hiện xong nghi lễ cưới lại, người con dâu mới chính thức xem là thành viên trong nhà chồng. Lúc này, người phụ nữ có thể đổi sang họ nhà chồng nếu muốn.
"Lễ cưới lại thì không nhất thiết phải làm lớn như lễ cưới ban đầu nhưng nhất thiết phải mổ một con lợn để mời anh em, làng xóm thân cận. Khách mời trong đám cưới lại cũng ít hơn cưới đầu, chủ yếu là anh em nội tộc thôi", ông Lê Văn Báo - Bí thư chi bộ bản Khe Búng nói.
Ông Lê Văn Báo - Bí thư chi bộ bản Khe Búng: "Nếu chưa cưới lại thì con dâu chưa được tính là người của nhà chồng".
Sáng sớm, gia đình nhà chồng buộc con lợn ngay dưới gầm nhà sàn, chỗ cây cột sát bàn thờ gia tiên. Phái trên sàn nhà chỗ gần cây cột sẽ chuẩn bị một chậu nước sạch. Cô dâu mới có nhiệm vụ dội chậu nước qua khe hở của sạp nứa lát sàn sao cho nước chảy trúng con lợn. Sau khi được "tẩy trần", con lợn được mổ ra đãi khách. Ăn uống xong cũng là khi lễ cưới lại kết thúc.
Sau khi lễ cưới lại hoàn thành, người con dâu mới được phép thắp hương lên bàn thờ gia tiên nhà chồng. Từ đó, sẽ cùng chồng gánh vác việc nhà, chăm sóc nuôi dạy con cái và làm chủ gian bếp của gia đình .
Hoàng Lam
Theo Dantri
Sự thật choáng váng về cô gái nhận nuôi đứa con nghi của tử tù Facebook có tên T.B.T của cô gái Trần Ngọc Bích Trâm, SN 1993, ngụ huyện Bình Chánh, TP.HCM vốn không xa lạ gì với cộng đồng mạng facebook. Trâm cũng chính là người từng chia sẻ câu chuyện"chặn đường đòi cướp nội tạng" ở Sài Gòn vào tháng 3/2015. Theo Trí Thứ Trẻ, câu chuyện này đã được người dân và chính quyền...