Cuộc đời của hero DotA 2: Lyralei the Windrunner
Khu rừng rậm phía tây ẩn tàng dưới những tàng cây rậm bóng của nó vô số những bí mật. Một trong số đó chính là Lyralei, bậc thầy tiễn thuật của rừng rậm, đứa bé được ưu ái bởi Thần Gió. Toàn bộ người thân của Lyralei the Windrunner đã qua đời trong cái đêm giông bão mà nàng chào đời. Cuồng phong phá hủy phòng ốc của họ, biến hết thảy hóa thành hư ảo. Chỉ còn duy nhất Windrunner, khi đó vẫn còn là một đứa trẻ sơ sinh, vẫn may mắn tồn tại giữa những tàn phá và chết chóc.
Khi bão táp dần tan và trở nên im lặng, chính bản thân những cơn gió liền chú ý đến đứa trẻ may mắn đang nằm khóc trong bụi cỏ ấy. Những cơn gió đã thực sự ưu ái đứa trẻ này, liền đem nàng nâng lên và đặt tại bậc thềm cầu thang của một gia đình hàng xóm.
Nhiều năm tháng về sau, những cơn gió vẫn thường trở về ngắm nhìn cuộc sống của đứa bé năm ấy, từ phía xa theo dõi nàng chăm chú tôi luyện kỹ thuật của chính mình. Hiện tại, trải qua nhiều năm huấn luyện, tiễn thuật của Windrunner đã trở nên “bách phát bách trúng”. Tốc độ của nàng nhanh đến nỗi khiến người ta khó có thể nhìn thấy rõ, tựa như có những cơn gió ở phía sau thổi nàng tiến tới. Windrunner dùng cơn lốc của những mũi tên để tiêu diệt kẻ thù. Chính bản thân nàng đã gần như trở thành một phần của lực lượng tự nhiên.
* Windrunner trong Dota 2 phải nói là nhí nhảnh hết biết, nghe giọng đúng kiểu thiếu nữ mới lớn, đáng yêu, tinh nghịch và kiêu hãnh.
* Tên ban đầu của Windrunner là Alleria, nguồn gốc từ Alleria Windrunner trong thế giới Warcraft. Nhưng do vấn đề bản quyền nên cái tên này đã bị thay đổi khi sang dota 2, tên của cô được đổi thành Lyralei, một cách chơi chữ, với các chữ cái được sắp xếp lại từ Alleria (duy chỉ có một chữ A bị đổi thành chữ Y).
Mối quan hệ với các heroes khác
a. Đồng minh:
Nhìn chung thì Windrunner có mối quan hệ tốt với không nhiều heroes, tất cả chỉ xoay quanh các heroes bắn cung(ném giáo), ngoài ra có 2 ngoại lệ đó là Lina, vì Lina có tóc hoe đỏ giống Windrunner, và Lone Druid.
- Ready for some target practice, Clinkz? – Nói khi gặp Clinkz: Sẵn sàng để luyện tập ngắm trúng mục tiêu chưa, Clinkz?
- That’s a beautiful mount, Mirana. – Nói khi gặp Mirana: Thú cưỡi đẹp đấy, Mirana.
- You always seem to be in such a good mood, Enchantress. – Nói khi gặp Enchantress: Có vẻ như cô lúc nào cũng vui vẻ nhỉ, Enchantress.
- My parents warned me about crazy old men in the forest, but you seem all right, Sylla. – Nói khi gặp Sylla: Cha mẹ ta luôn cảnh báo ta về một ông già điên khùng trong rừng, nhưng trông ông chẳng có vấn đề gì cả, Sylla.
- I like your hair, Lina – Nói khi gặp Lina: Ta thích tóc của cô, Lina
- Why so blue, Ranger? – Nói khi gặp Traxex: Sao mà xanh thế, cung thủ?
b. Kẻ thù:
Có thể nói đồng minh và kẻ thù của Windrunner đều là một, ngoại trừ việc kẻ thù nhiều hơn một chút. Cô nàng tóc vàng này khi giết kẻ thù cũng vẫn luôn thể hiện sự nhí nhảnh, hồn nhiên của một cô bé tuổi teen:
- Cheer up, Traxex. – Nói khi giết Traxex: Cười lên nào, Traxex.
- Drow Ranger, where’d you learn to shoot? – Nói khi giết Traxex: Drow Ranger, cô đã học bắn cung ở đâu thế hở?
- Sorry, Clinkz, I can offer archery lessons if you’d like. – Nói khi giết Clinkz : Xin lỗi, Clinkz, ta có dạy ngươi vài bài học bắn cung nếu ngươi muốn.
- Enchantress, you’re too cute to kill. Just stay back and hide next time. – Nói khi giết Enchantress : Enchantress, thật đáng tiếc phải giết người xinh đẹp như cô. Lần sau hãy đứng sau và trốn đi nhé.
- I’m loathe to kill another ginger, but for you I made an exception. – Nói khi giết Lina: Ta thực sự không muốn giết bất cứ một cô nàng tóc hoe đỏ nào kác, nhưng với cô, đây là ngoại lệ.
- our tiny featherless arrows can’t hurt me, Sniper. – Nói khi giết Sniper : Mũi tên bé xíu không có lông vũ của ngươi chẳng thế làm thương hại đến ta, Sniper.
- Careful, Ursa, it’s bow hunting season. – Nói khi giết Ursa: Cẩn thận, Ursa, đang là mùa săn bắn đấy.
- You were a fast one, Lycan, at least when you were alive. – Nói khi giết Lycan : Ngươi đã từng rất nhanh, Lycan, ít nhất là khi ngươi còn sống.
- I knew I should have worn sun protection. – Nói khi giết Phoenix : Ta đã biết là ta nên mặc đồ chống nắng mà.
c. Một số câu nói đặc sắc khác:
- Câu nói thể hiện sự “imba” của Windrunner:
Video đang HOT
“I oce shot an ant off a worm’s backside, but only aimed to wound”.
“Tôi từng bắn một con kiến bay khỏi lưng một con sâu, và còn nhắm để làm sao chỉ khiến nó bị thương”.
- Nói khi giết người:
Aw, better luck next life! : Ôi, chúc bạn may mắn đời sau!
If you were still alive, I’d still be shooting : Ngươi còn sống, ta còn bắn.
If you weren’t so damned dead, I’d shoot you again : Nếu ngươi chưa chết thảm như thế, ta sẽ còn bắn tiếp.
Could be worse. Oh, wait, no it couldn’t. : Có thể thảm hơn. Ồ, chờ đã, không nó không thể.
- Nói khi bị giết: You hit… a girl! : Ngươi đánh cả con gái sao?
- Nói khi miss powershot: Unbelievable, I never miss! : Không thể tin được, ta không bao giờ trượt!
- Nói khi cầm Aegis: Death can’t catch me now. : Cái chết không đuổi kịp ta đâu.
- Nói khi sống lại bởi Aegis: Being dead is boring : Chết rồi thì buồn lắm.
- Nói khi mua Blink: Now I have a knife and a bow! : Giờ ta có một con dao và một cái cung (Thợ săn đích thực).
Theo GameK
Tiểu sử HeroJa'rakal the Troll Warlord: Hung thần kiêu ngạo trong DotA
Troll Warlord là Hero vừa xuất hiện trong bản cập nhật ngày 25/01/2013 vừa qua. Đây là một Hero Agility thuộc Radiant và là một bộ mặt đã quá quen thuộc đối với những ai từng chơi Dota (1). Về vị trí, Troll có thể được xem như là một trong những Carry 'khủng' nhất Dota, với tốc độ đánh cực nhanh và khả năng chuyển đổi từ một range thành một melee (và cho Troll khả năng gây bash lên tới 2s mỗi cú đánh nếu kích hoạt thành công). Tuy nhiên, người Troll khá mỏng, không có kỹ năng chạy trốn và cần farm tương đối nhiều, bởi vậy, đây là một Hero ít thấy trên đấu trường competitive.
Dưới đây là bản dịch tiểu sử của Hero này và một vài câu nói "cửa miệng" trong Dota 2.
Ja'rakal the Troll Warlord
"The strong eat the weak, and I eat the strong".
"Kẻ mạnh &'làm thịt' kẻ yếu, và ta thì &'làm thịt' kẻ mạnh".
Muốn làm mếch lòng một gã Troll thì rất dễ dàng. Đó là một chủng tộc hung hăng và càn quấy, hay tranh chấp và dễ xung đột. Ngoài ra, họ sẽ không bao giờ từ bỏ bất cứ một cơ hội nào để được cao giọng trong một cuộc tranh cãi. Đám đàn ông trong tộc sẽ được nuôi dưỡng từ bé cho đến khi trưởng thành ở trong những căn phòng bên dưới lòng đất bởi các bà chủ gia đình, được cho ăn và được tiêu khiển mà không phải cống hiến bất cứ thứ gì. Thường thì họ sẽ dành nhiều năm liền ở đó, thậm chí là qua cả tuổi trưởng thành, trong khi các bà chủ gia đình phải chu cấp và nuôi dưỡng họ.
Thế rồi, cho đến khi mà các gã Troll trẻ tuổi cuối cùng cũng bị đẩy khỏi căn phòng, họ sẽ gia nhập cùng những gã đồng tộc khác, hình thành các băng nhóm lưu động luôn lớn tiếng phàn nàn về bất cứ thứ gì khiến mình bực bội. Những gã Troll yêu thích tranh luận đến dường nào, thì hãy tưởng tượng mà xem, cũng sẽ khó khăn y như thế, cho một gã Troll với bản chất tương tự như các đồng tộc khác, trở nên vô cùng khác biệt với phần còn lại. Đó là định mệnh của Ja'rakal, một gã Troll làm nghề lái buôn đến từ dưới đáy của Hoven.
Hắn đã từng thật gian dối, cay nghiệt và héo mòn, khiến cho ngay cả những gã Troll khác tìm đến với đoàn lái buôn của hắn cũng không thể chịu đựng nổi. Và rồi, xung đột cuối cùng cũng bùng phát sau cuộc đi săn cuối cùng của họ, khi mà Ja'rakal định độc chiếm phần lớn những gì thu được. Đám đồng nghiệp của hắn đã không thể chịu được nữa, và đã hạ gục hắn, đánh hắn bằng những chiếc dùi cui, rồi tống hắn ra khỏi doanh trại. Phẫn nộ vì bị trục xuất, ngày hôm sau, Ja'rakal trở lại, được trang bị bởi những thứ vũ khí thằng sắt, và giết chết tất cả bọn chúng, từng người từng người một.
Sau đó, hắn đã cất vang một lời Huyết-Thệ (lời thề máu): từ nay về sau, hắn sẽ trở thành một lực lượng vũ trang phục vụ cho chính bản thân mình. Hiện tại, hắn lang thang giữa thế giới này, được biết đến với danh hiệu Troll Warlord, cay nghiệt và giận dữ, kẻ chỉ huy tối cao của một quân-đoàn-một-người.
Axe cũng là một quân-đoàn-một-người. Troll vẫn thuộc Radiant. Một lần nữa, có thể thấy được ý định xây dựng về một cuộc chiến không phải giữa thiện và ác của Valve với Dota 2. Tiểu sử của Troll đọc cảm thấy rất xứng với cái tên của hắn. Vâng, TROLL! Dưới đây là một vài câu nói "cửa miệng" của Troll Warlord. Có thể nói rằng, những gì Troll nói chính là những gì mà game thủ...ghét phải nghe nhất từ một người đồng đội:
Nói khi chiến thắng:
- "I carried us to victory!"- "Ta đã dẫn mọi người giành được chiến thắng!".
- "Even with this team, I managed to win."- "Mặc dù là với một cái team thế này, ta vẫn có thể giành được chiến thắng!".
Nói khi thất bại:
- "It was everyone else's fault." - "Đó là lỗi của những kẻ khác!".
- "If I had a decent team, this never would have happened." - "Nếu tôi có những đồng đội "ra hồn" hơn, điều này đã không bao giờ xảy ra!".
- "With this team, I didn't have a chance!" - "Với cái team thế này, tôi chẳng có chút cơ hội nào!".
- "Why do I always get the worst teams?" - "Tại sao tôi luôn luôn gặp phải những đồng đội tồi tệ nhất?".
- "We only lost because my whole team are noobs!" - "Chúng tôi thua là bởi vì cả team của tôi đều là noob!".
- "Don't look at me. I did everything right." -"Đừng nhìn tôi, tôi đã làm mọi việc phải làm!".
Đó đều là lỗi của kẻ khác.
Nói với Kẻ thù: Đọc tiểu sử thì thấy, Troll quả thật là một gã chiến binh cay nghiệt, hung hăng và luôn giận dữ, thế nên, hắn có rất nhiều kẻ thù. Đồng thời, hắn có vẻ cũng không phải là một gã đàn ông biết tỏ ra lịch thiệp với phụ nữ.
- "Even stone can't turn my blades."- "Ngay cả đá cũng không thể làm cong lưỡi rìu của ta" (Nói với Tiny sau khi kill).
- "Your life is trunk-cated, heh hah he hah."- "Một cái cây-lai-người, đó là cuộc sống của người, he ha he ha" (Dịch thoát ý, nói với Nature Prophet).
- " Your flesh corrupted."- "Thịt của ngươi đã thối rữa!" (Nói với Pudge).
- "There's no hread of yours I can't snarl up."- "Không có &'sợi chỉ' nào của ngươi mà ta không thể làm rối tung lên!" (Nói với Weaver, đọc tiểu sử của Weaver để hiểu nghĩa của từ &'sợi chỉ').
- "Whatever form you take, I'll dominate it."- "Bất cứ hình dạng nào của ngươi, người hay gấu, ta đều sẽ chế ngự được nó!" (Nói với Syllabear sau khi kill)
- " I'll kill you again, and again, and again."- "Ta sẽ giết ngươi một lần, rồi một lần nữa, rồi một lần nữa..." (Nói với Leoric sau khi kill).
- "Not so dazzling in death."- "Cũng không quá &'sáng chói' khi chết!" (Nói với Dazzle sau khi kill).
-"No suffering is enough for you."- "Chẳng có nỗi đau nào là đủ để dành cho ngươi!" (Nói với Huskar sau khi kill).
- " Bow before your warlord."- "Hãy quỳ gối trước Chiến-Vương của ngươi!" (Nói với Sand King sau khi kill).
- "The trolls from the hills are barely trolls at all."- "Một gã troll đến từ vùng đồi, và là gã troll rỗng tuếch nhất trong cả tộc loài." (Nói với Rhasta).
- "Hill trolls are the weakest of our kind."- "Troll-vùng-đồi là thứ yếu ớt nhất trong dòng tộc chúng ta." (Nói với Rhasta sau khi kill).
- "I hear your keening cry."- "Ta nghe thấy bài hát tang của ngươi đang rên rỉ." (Nói với Tinker sau khi kill, ở đây chơi chữ từ &'keen', vừa có nghĩa là &'bài hát tang', vừa là tên tộc của Tinker).
- "Your mind was not so keen as my blades."- "Tâm trí của ngươi không được sắc sảo như lưỡi rìu của ta." (Nói với Tinker sau khi kill, ở đây chơi chữ từ &'keen', vừa có nghĩa là &'sắc sảo', vừa là tên tộc của Tinker).
- " Ride your ogre to hell, small-keen."- "Cưỡi con Ogre của ngươi xuống địa ngục đi, gã keen bé nhỏ" (Nói với Alchemist).
- "Ogre, you had a growth on your neck. I cut it off." - "Ogre, ngươi có một khối u đằng sau cổ. Ta đã cắt nó xuống." (Nói với Ogre Magi).
- "I knocked that chip off your shoulder."- "Ta gỡ cái chip đó ra khỏi vai ngươi" (Nói với Sniper).
- "I suffer you special, Sniper." - "Ta sẽ khiến ngươi đau đớn một cách đặc biệt, Sniper" (Nói với Sniper).
- " You keen folk cower behind your gadgets."- "Cái bản chất của một gã keen folk đang co rúm lại đằng sau những thứ vũ khí tối tân đó của ngươi!" (Nói với Sniper).
- "Your contraption becomes your coffin."- "Cái cỗ máy kỳ cục của ngươi giờ đã trở thành cái quan tài cho ngươi". (Nói với Gyrocopter).
"Your clock stops." - "Cái đồng hồ của ngươi đã ngừng chạy" (Nói với Clockwerk).
- " You were strong for a keen, but that's not saying much."- "Ngươi có thể là một gã Keen khỏe mạnh, nhưng điều đó cũng chẳng có nghĩa lí gì nhiều. (Nói với Clockwerk).
- "Not so cheerful now, are you?"- "Cũng không vui vẻ lắm, phải không?" (Nói với Enchantress).
- "Do you know what I hate? You!"- "Ngươi có biết ta ghét gì không? Ngươi!" (Nói với Enchantress).
- "You remind me of me. I hate you most of all!"- "Ngươi khiến ta nhớ đến bản thân mình. Ta căm thù ngươi nhất trong tất cả" (Nói với 1 Hero chưa rõ tính danh).
- "An axe for an axe."- "Một cái rìu cho một gã Axe(hoặc 1 cái rìu)" (Nói với Axe).
- "It's not the size of the axe that matters, it's how you swing it."- "Điều quan trọng không phải là kích cỡ của một cái rìu, mà là ngươi sử dụng nó như thế nào!" (Nói với Axe).
- " Enjoy your ban." - "Hãy hưởng thụ lời nguyền của ngươi!" (Nói với Pugna).
Nói với Đồng Minh: Troll không có một đồng minh nào rõ ràng, và kể cả đối với đồng minh, gã cũng hằn học và khiếm nhã.
- "I need no allies." -"Ta không cần đồng đội".
- "I kill my enemies first, my allies next."- "Ta giết kẻ địch trước, và giết đồng minh của mình ngay sau đó!".
- " Let's kill these fools before we start in on each other."- "Hãy cùng giết đám ngu ngốc đó trước, rồi chúng ta sẽ "vui vẻ" với nhau!".
- "I'llget to you later."- "Ta sẽ &'thịt' ngươi sau!".
- " Would that I could fight alone."- "Liệu ta có thể chiến đấu một mình không.".
- " I'd be better off fighting alone."- "Sẽ tốt hơn nếu ta chiến đấu một mình".
- "Don't get in my way."- "Đừng có cản đường ta".
- "You've got to be kidding."- "Ngươi hẳn là vừa nói đùa".
- " Why are my allies so weak and pathetic." - "Tại sao đồng đội của ta lại quá yếu ớt và tàn phế?".
- "I can see I'll have to carry us to victory."- "Ta có thể nhìn thấy bản thân mình dẫn dắt tất cả chúng ta đi đến thắng lợi!".
- " Try not to feed."- "Cố mà đừng có feed".
-"Just try not to feed." - "Chỉ cần cố đừng có feed".
Nói với Shopkeeper: (Cái này chỉ Troll mới có)
- "Shut up, Keeper." - Im mồm, Keeper.
- "If I anted your opinion, I wouldn't be me." - Nếu ta muốn nghe ý kiến của ngươi, đó đã không phải là ta rồi.
- "I'll kill you later, shopkeeper." - Ta sẽ giết ngươi sau, thằng bán đồ.
- "Keep on smiling, shopkeeper. It won't last." - Cứ cười đi, thằng bán đồ. Mi không cười được bao lâu nữa đâu."
- "I'd rather strip this from a corpse." - Ta thà lột cái này từ xác chết còn hơn.
- "Where's the complaint department?" - Phòng khiếu nại ở đâu?
- "I'd like to fill out an application." - Ta muốn điền vào đơn khiếu nại.
Khi cảm ơn:
- "Took you long enough.": Mày cần nhiều thời gian thế để giúp tao sao?
- "I'm still going to kill you later.": Tao vẫn sẽ giết mày sau này.
- "Next time, be quicker about it.": Lần sau thì nhanh cái tay lên.
Nói khi người chơi cố gắng sử dụng skill khi nó đang cooldown:
- "Not yet." : Chưa xong.
- "Do that again, and I will kill you.": Làm lại coi, tao chém chết mày luôn.
- "Now I'm ready, to stab you.": Tao sẵn sàng rồi, sẵn sàng chém mày.
Nói khi bottle rune
- "Ah, the red rune runs." - Nói khi bottle Haste : À, rune đỏ cháy bỏng.
- "The crackle rune." - Nói khi bottle DD: Rune của sự rạn nứt.
- "Green like my envy." - Nói khi bottle regen : Xanh như sự ghen tị của ta (Câu này bắt nguồn từ thành ngữ "Green with envy" của tiếng anh, tạm dịch nó là ghen ăn tức ở - tức gato, nhưng green with envy mang sắc thái mạnh hơn rất nhiều, hiểu đơn giản giống câu "Giận tím cả mặt" của Việt Nam ấy, nhưng mà đây là ghen chứ không phải giận).
- "Moreof me to hate." - Nói khi bottle rune illu: Có nhiều ta hơn cho tụi bay ghét nhé.
- "Anonymity, the friend to every troll." - Nói khi bottle rune invi: Vô danh tính, người bạn của mọi con troll (Câu này giống kiểu anh hùng bàn phím của VN ấy, luôn giấu mặt mà không bao giờ lộ diện).
Nói khi nhận được item:
- "What the hell is this?" - Khi nhận được common : Cái quái quỷ gì thế này?
- "Wait, who's giving me presents?" - Khi nhận được uncommon : Chờ đã, ai tặng tà quà vậy?
- "Oh, I deserve this for being so nice." - Khi nhận được rare : Ồ, ta xứng đáng được nhận món đồ này vì đã quá tuyệt vời.
Theo Gamek
Huyền thoại DotA YaphetS "lấn sân" sang DotA 2 Có lẽ khi nhắc đến YaphetS thì không một Fan hâm mộ DotA nào lại không biết đến anh. Tiểu sử của YaphetS: YaphetS tên thật là Bu Yanjun, anh sinh ngày 8/3/1990 tại Nam Kinh, Trung Quốc. Ở Public anh có rất nhiều nick-name như YaphetS, YS, PIS, Thunder, Mystery, Turbo... Yaphet nghĩa là vua và chữ S đằng sau nghĩa là...