Củ ấu – bài thuốc hay
Củ ấu thường có hai giống: ấu gai cho trái có hai sừng nhọn như gai, năng suất thấp. Ấu trụi cho trái có hai sừng tù, năng suất cao. Nếu trái ấu chưa quá già, màu nâu, chưa rụng xuống bùn, luộc ăn ngon, gọi là ấu nâng gương. Nếu trái đã già, chuyển qua màu đen sẫm, vỏ cứng như sừng, có nhiều bột, gọi là ấu sừng trâu, cần thu hoạch liền. Mùa hoa tháng Năm-Sáu, mùa trái tháng Bảy-Chín.
Trái ấu mà ta thường gọi là củ ấu ( Fructus Trapae) phải thu hoạch lúc già, đem luộc chín, lấy nhân ra, phơi hoặc sấy khô để dùng dần. Vỏ trái phơi khô để làm thuốc. Toàn cây tươi hoặc phơi khô cũng được dùng làm thuốc.
Trong 100g thịt củ ấu có chứa: protein 3,6g; lipid 0,5g; glucid 24g; Ca 9mg; P 49mg; Fe 0,7mg; caroten 0,01mg; vitamin B1 0,23mg; B2 0,05mg; PP 1,9mg; C 5mg; cung cấp 115 calo.
Ảnh: Internet
Theo Đông y, thịt trái ấu có vị ngọt, tính mát, tác dụng bổ mát, giải thử nhiệt, giải độc, giải rượu, trừ phiền. Ăn vào giúp ích khí, kiện tỳ, bổ ngũ tạng.
Sách Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân (1518-1593) cho rằng, củ ấu có công năng cầm tiêu chảy, chữa kiết lỵ, đại tiện ra máu, loét dạ dày… Ngày dùng 30-60g, sắc uống.
Video đang HOT
Vỏ trái ấu dùng chữa loét dạ dày và loét cổ tử cung. Toàn thân cây dùng chữa trẻ em sài đầu, giải độc rượu và làm cho sáng mắt. Liều dùng 10-16g, dạng thuốc sắc.
Sau đây là một số bài thuốc có dùng ấu:
- Giải trúng nắng, giải say rượu, dã độc thuốc: dùng thịt ấu tươi 150-250g, nhai nát nuốt dần hoặc giã nát, chế thêm nước nguội để uống.
- Chữa tỳ vị hư nhược, ăn uống không tiêu, đi cầu lỏng, hay đau bụng lạnh: thịt ấu 50g, bạch truật 16g, sơn tra 10g, hoài sơn 16g, màng mề gà (kê nội kim) 6g, cam thảo bắc 3g. Sắc với 750ml nước, còn lại 300ml chia hai-ba lần uống lúc đói bụng.
- Chữa viêm loét dạ dày: thịt ấu 30g, hoài sơn 16g, táo đỏ 16g, bạch cập (Rhizoma Bletiliae) 10g, gạo nếp 100g. Cho tất cả vào nồi, thêm lượng nước vừa đủ để nấu cháo nhừ. Khi ăn cho 20g mật ong trộn đều. Chia hai-ba lần ăn trong ngày. Món này còn là món ăn bổ trợ tốt cho những người bị ung thư dạ dày.
- Chữa đại tiện ra máu: vỏ ấu 60g, cỏ mực 8g, trắc bá diệp ( sao đen) 8g, hoa hòe (sao) 8g, gương sen (sao) 8g, sắc với 750ml nước, còn 300ml chia hai lần uống trước bữa ăn.
- Chữa trĩ ra máu: vỏ ấu sấy khô, đốt tồn tính, tán bột mịn, trộn đều với dầu mè để bôi hoặc đắp, ngày ba-bốn lần.
– Hư nhiệt, phiền khát: thịt củ ấu tươi 50g, mía lau 50g, câu kỷ tử 10g, đậu đen 16g, sắc uống.
- Loét dạ dày, loét cổ tử cung: lấy vỏ củ ấu sao vàng cho có mùi thơm rồi sắc với nước uống.
Người ta còn lấy thịt ấu sấy khô, tán bột, hòa với đường hoặc mật để làm bánh ăn rất ngon và bổ dưỡng, phòng chống thử nhiệt mùa nắng nóng.
Củ ấu đốt thành than tồn tính, tán thành bột, trộn đều với dầu vừng, dùng bôi ngoài trĩ, mụn nước, nhiễm trùng sưng ngoài da. Dùng đun nước rửa hậu môn để chữa sa trực tràng (lòi dom).
Tuy củ ấu là vị thuốc tốt và thực phẩm ngon, nhưng ăn nhiều sẽ gây trệ khí, do đó những người có u cục ở ngực, bụng, không được dùng.
Theo PNO
Củ ấu trị cảm sốt
Củ ấu tên khoa học Trapa bicornis L- Hydrocaryaceae, họ củ ấu Trapaceae, còn gọi là ấu trụi, ấu nước, kỵ thực, hạt dẻ nước, năng thực (Trung Quốc). Là loại thực vật thủy sinh sống dưới nước, mọc trong ao đầm, thân ngắn có lông.
Quả thường gọi là củ có hai sừng, quả cao 35mm, rộng 5cm, sừng dài 2cm, đầu sừng hình mũi tên, sừng do các lá đài phát triển thành. Trong củ chứa một hạt ăn được, có vị ngọt mát, bùi, giàu dinh dưỡng. Củ ấu có 4 loại là ấu đỏ, ấu 2 sừng, ấu 3 sừng và ấu 4 sừng.
Cây củ ấu được trồng ở các ao đầm khắp nơi trong nước ta. Trồng bằng hạt hay bằng chồi. Mùa hoa (ở miền Bắc) vào tháng 5 - 6 mùa quả vào các tháng 7 - 9. Quả cũng để ăn, vỏ quả và toàn cây dùng làm thuốc. Dùng tươi hay phơi hoặc sấy khô.
Thành phần hóa học: Trong hạt ấu có tinh bột chừng 49% và chừng 10,3% protid. Các chất khác chưa thấy nghiên cứu. Theo tài liệu Trung Quốc, trong 100g củ ấu chín có 4,5g albumin, 0,1g chất béo, 19,7g chất đường các loại, 0,19g vitamin B1, 0,06g B2, 1,5mg PP, 13mg C, 7mg Ca, 0,7mg sắt, 19mg Mn, 93mg P. Chất AH13 là chất chiết ung thư gan được dùng hỗ trợ điều trị chống ung thư.
Theo Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân, củ ấu vị ngọt chát, tính bình. Công dụng thoát tả, giải độc, tiêu thũng. Dùng chữa tiêu chảy, kiết lỵ, đại tiện ra máu, bệnh dạ dày. Mỗi lần dùng 30-60g sắc uống. Củ ấu đốt tồn tính, tán bột trộn dầu vừng bôi chữa trĩ, mụn nước, viêm nhiễm ngoài da nấu vỏ lấy nước rửa hậu môn chữa sa trực tràng (lòi dom).
Công dụng và liều dùng: Củ ấu chủ yếu được nhân dân dùng luộc ăn hoặc chế biến thành bột trộn với mật hay đường làm bánh. Quả sao cháy dùng chữa nhức đầu, choáng váng và cảm sốt. Ngày dùng 3-4 quả dưới dạng thuốc sắc. Vỏ quả sao cho thơm, sắc uống chữa sốt, chữa mệt nhọc khi bị sốt rét, còn dùng chữa loét dạ dày, loét cổ tử cung. Toàn cây chữa trẻ con sài đầu, giải độc rượu, làm cho sáng mắt. Ngày dùng từ 10-16g dưới dạng thuốc sắc. Dùng ngoài không kể liều lượng. Cần lưu ý, tuy củ ấu là vị thuốc, ăn ngon, nhưng ăn nhiều sẽ gây trệ khí, do đó những người có u cục ở ngực bụng không dùng.
Dưới đây là một số cách trị bệnh từ cây, củ ấu:
- Chữa nhức đầu, choáng váng, cảm sốt: lấy 3 - 4 củ ấu sao cháy, sắc uống, ngày 1 thang.
- Sốt, sốt rét, loét dạ dày: vỏ củ ấu sao thơm, sắc uống.
- Giải độc rượu, làm sáng mắt, chữa sài đầu trẻ: lấy 10-16g toàn cây, sắc uống.
- Rôm sảy, da khô sạm: dùng củ ấu tươi, giã nát, xoa lên da.
- Viêm loét dạ dày: thịt củ ấu 30g, củ mài 15g, hồng táo 15g, bạch cập 10g, gạo nếp 100g, nấu cháo, cho thêm 20g mật ong, trộn đều ăn.
- Hư nhược phiền khát: thịt củ ấu tươi 50g, địa cốt bì 15g, câu kỷ tử 6g, hoàng cầm 6g, cam thảo chế 6g. Sắc uống.
- Trị say rượu: thịt củ ấu tươi 250g, nhai nuốt.
- Trị tỳ vị hư nhược: thịt củ ấu 50g, bạch truật 15g, hồng táo 15g, sơn tra 10g, sơn dược 15g, màng mề gà 6g, cam thảo chế 3g. Sắc uống.
- Trị đại tiện ra máu: vỏ củ ấu 60g, địa du 15g, tiêu sơn căn 6g, ô mai 10g, cam thảo chế 6g. Sắc uống.
- Trị bệnh trĩ, nhọt nước: vỏ củ ấu sấy khô, đốt tồn tính, tán bột, trộn đều với dầu vừng, bôi hoặc đắp.
Theo SK&ĐS
Rau má chữa bệnh Nói tới rau má, hầu hết nhân dân ta, nhất là vùng nông thôn, ai cũng nhận biết được dễ dàng. Đã từ lâu, nhân dân ta biết dùng rau má làm món rau ăn, thậm chí có thể ăn rau má đến no bụng, hỗ trợ lương thực thiếu vào những ngày giáp hạt thuở xa xưa. Bởi thế ở xứ Thanh...