Công bố Top 10 Công ty bán lẻ uy tín năm 2021
Theo tin từ Công ty cổ phần Báo cáo Đánh giá Việt Nam (Vietnam Report), cơ quan này vừa thực hiện một số nghiên cứu về thị trường bán lẻ trong thời gian vừa qua, đồng thời công bố Bảng xếp hạng Top 10 Công ty bán lẻ uy tín năm 2021.
Khách hàng giao dịch tại Vàng Bạc Đá quý Doji. Ảnh minh họa: Minh Phương/Báo Tin tức
Theo đó, đứng đầu nhóm hàng tiêu dùng nhanh và siêu thị vinh danh các tên tuổi như Tập đoàn Central Retail Việt Nam, Công ty cổ phần Dịch vụ Thương mại Tổng Hợp Wincommerce, Liên hiệp Hợp tác xã Thương mại TP Hồ Chí Minh, Công ty TNHH MM Mega Market (Việt Nam), Công ty TNHH Aeon Việt Nam, Công ty cổ phần Trung tâm Thương mại Lotte Việt Nam, Tổng Công ty Thương mại Sài Gòn – TNHH MTV, Công ty cổ phần Dịch vụ hàng không Sân bay Tân Sơn Nhất (SASCO), Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Liên Thái Bình Dương, Tổng Công ty Thương mại Hà Nội.
Nhóm hàng lâu bền như điện máy, điện lạnh, vàng bạc… gồm có Công ty cổ phần Đầu tư Thế giới di động, Công ty cổ phần Tập đoàn Vàng Bạc Đá quý DOJI, Công ty cổ phần Vàng Bạc Đá quý Phú Nhuận, Công ty cổ phần Bán lẻ Kỹ thuật số FPT, Công ty TNHH MTV Vàng Bạc Đá quý Sài Gòn -SJC, Công ty TNHH Cao Phong, Công ty cổ phần Mediamart Việt Nam, Công ty TNHH Nhà nước Một thành viên Thương mại và Xuất nhập khẩu Viettel, Công ty cổ phần Phát hành sách Tp. Hồ Chí Minh – Fahasa, Công ty TNHH Thương mại VHC…
Top 10 Công ty Bán lẻ uy tín năm 2021 được xây dựng dựa trên nguyên tắc khoa học và khách quan. Các công ty được đánh giá, xếp hạng dựa trên 3 tiêu chí chính: năng lực tài chính thể hiện trên báo cáo tài chính năm gần nhất; uy tín truyền thông được đánh giá bằng phương pháp Media Coding – mã hóa các bài viết về công ty trên các kênh truyền thông có ảnh hưởng và kết quả khảo sát đối tượng nghiên cứu và các bên liên quan được thực hiện trong tháng 8 và tháng 9/2021.
Bình luận về những tác động của làn sóng dịch COVID-19 lần thứ tư đối với ngành bán lẻ, ông Vũ Đăng Vinh, Tổng giám đốc Vietnam Report cho hay, bán lẻ là một trong những lĩnh vực chịu tác động mạnh mẽ nhất của đại dịch COVID-19, nhưng cũng cỏ khả năng phục hồi nhanh so với các lĩnh vực khác. Điều này thể hiện rõ nhất theo kết quả kinh doanh theo từng tháng.
Thị trường bán lẻ tại Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu sụt giảm kể từ đầu tháng 2 năm 2020 khi dịch bệnh COVID-19 bắt đầu lan rộng, tiếp theo là hai đợt bùng phát vào đầu tháng 4 và cuối tháng 7. Tuy nhiên tới tháng 9 khi kết thúc lệnh giãn cách xã hội, ngành bán lẻ bỗng chốc có sự hồi phục mạnh mẽ.
Video đang HOT
Vượt qua khó khăn nghiêm trọng bởi đại dịch, trong năm 2020, thị trường bán lẻ Việt Nam vẫn duy trì đà tăng trưởng tốt, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt hơn 3,9 triệu tỷ đồng và tăng 6,8% so với năm trước. Dù ảnh hưởng của dịch bệnh, ngành bán lẻ vẫn tăng trưởng khả quan trong những tháng đầu năm 2021.
Tuy nhiên, làn sóng COVID-19 lần thứ tư quay trở lại từ tháng 5 năm nay đã mang theo biến thể Delta có sức ảnh hưởng lớn hơn khiến nhiều tỉnh, thành phố kinh tế trọng điểm thực hiện việc siết chặt giãn cách và phong tỏa và hạn chế nhiều khu vực dịch vụ trực tiếp tại các cửa hàng. Điều này dẫn đến tốc độ tăng trưởng của ngành bán lẻ so với cùng kỳ năm trước bị giảm mạnh.
Theo Tổng cục Thống kê, doanh thu bán lẻ hàng hóa 9 tháng năm 2021 ước tính đạt 2.779,7 nghìn tỷ đồng, giảm 3,4% so với cùng kỳ năm 2020. Doanh thu bán lẻ chỉ tính riêng tháng 8 giảm 8% so với tháng trước và giảm 25,3% so với cùng kỳ nhưng đã có sự tăng nhẹ gần 4,5% trong tháng 9 khi các biện pháp giãn cách xã hội được nới lỏng tại nhiều tỉnh.
Tuy vậy, kênh bán lẻ vẫn đang khẳng định vai trò quan trọng trong phân phối hàng hóa, kết nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Đặc biệt là hệ thống bán lẻ hiện đại trước đây chỉ chiếm 30% nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng, nhưng khi nhiều chợ truyền thống vẫn còn đóng cửa, các cửa hàng, siêu thị đã và đang nỗ lực thích ứng kịp thời, chung tay cùng chính quyền và các đơn vị liên quan để phục vụ cho người dân các loại hàng hóa thiết yếu, nhu yếu phẩm.
Đứng trước những khó khăn, thách thức do tác động của đại dịch COVID-19, nguy cơ lạm phát gia tăng, các chuyên gia cũng như doanh nghiệp trong khảo sát của Vietnam Report rất thận trọng trong nhận định về triển vọng của ngành bán lẻ vào những tháng cuối năm 2021 so với năm trước.
Theo đó, báo cáo của Vietnam Report đã chỉ ra rằng, có 61,9% doanh nghiệp và chuyên gia đánh giá nhóm ngành hàng lâu bền sẽ khó khăn hơn rất nhiều, trong khi nhóm bán lẻ hàng tiêu dùng có phần tươi sáng hơn với 56,52% ý kiến cho rằng ngành bán lẻ tiêu dùng sẽ khó khăn hơn một chút, 26,09% đánh giá khó khăn hơn nhiều và có 8,70% đánh giá khả quan hơn một chút.
Khoảng gần 40% doanh nghiệp bán lẻ trong khảo sát của Vietnam Report cho rằng để doanh thu của ngành bán lẻ sau làn sóng COVID-19 lần thứ tư có thể phục hồi cần từ 7 đến 12 tháng và có 20% doanh nghiệp thuộc nhóm hàng tiêu dùng nhanh lạc quan hơn, nhận định thị trường phục hồi sau khoảng 6 tháng khi mà du lịch mở cửa, người dân hoạt động nhộn nhịp trở lại.
Sớm hoàn thiện khung khổ pháp lý về xử lý nợ xấu
Dịch bệnh COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp đã dẫn đến khả năng trả nợ của khách hàng vay suy giảm.
Nợ xấu của các tổ chức tín dụng có khả năng tiếp tục tăng mạnh trong thời gian tới, cản trở sự phát triển của cả nền kinh tế.
Khách hàng giao dịch tại Hội sở chính Vietcombank, Hà Nội. Ảnh minh họa: Trần Việt/TTXVN
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú thừa nhận, dịch bệnh khiến các chuỗi cung ứng bị đứt gãy, các doanh nghiệp không có dòng tiền, không thể trả nợ, vì vậy nợ xấu nền kinh tế phát sinh là điều tất yếu.
Tại báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng cũng cho thấy, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng tích cực áp dụng các chính sách để xử lý nợ xấu; nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất lượng tín dụng, hạn chế phát sinh nợ xấu mới bảo đảm phù hợp với diễn biến dịch bệnh. Đến 30/6, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống là 1,73%, giảm so với thời điểm trước khi triển khai Nghị quyết số 42/2017/QH14.
Tính từ cuối năm 2017 đến ngày 30/6/2021, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được 677.000 tỷ đồng nợ xấu nội bảng. Trong đó, nợ xấu do các ngân hàng tự xử lý là 554.600 tỷ đồng, chiếm 81,92%; nợ xấu bán cho Công ty TNHH một thành viên Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) là 110.300 tỷ đồng, chiếm 16,29%. Nợ xấu bán cho tổ chức, cá nhân khác là 12.100 tỷ đồng, chiếm 1,8%. Tính riêng từ 30/6/2020 đến 30/6/2021, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được 188.700 tỷ đồng nợ xấu nội bảng.
Đến cuối tháng 6/2021, tổng nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và các khoản tiềm ẩn thành nợ xấu tăng 2,8% so với cuối năm 2020 và có số dư 384.960 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 3,66% so với tổng dư nợ cho vay, đầu tư.
Nếu tính thêm các khoản nợ được cơ cấu và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư 01/2020/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ do ảnh hưởng của dịch COVID-19 có nguy cơ chuyển thành nợ xấu thì tỷ lệ này là 7,21%.
Trong số đó, nhiều ngân hàng ghi nhận nợ xấu tăng trong nửa đầu năm nay đang ở mức khá cao như: Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank), Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agibank) ghi nhận mức tăng trưởng nợ xấu lần lượt là 52%, 31,3% và 13,5%...
Do đó, mục tiêu phấn đấu xử lý và kiểm soát tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống các tổ chức tín dụng ở mức dưới 2% trong thời gian tới là thách thức không nhỏ đối với ngành ngân hàng.
Theo Phó Thống đốc Đào Minh Tú, 10 năm qua, việc xử lý nợ xấu rất vất vả và Nghị quyết số 42/2017/QH14 đã hỗ trợ mang lại kết tích cực nhưng do tác động của COVID-19, tốc độ tăng nợ xấu tăng khá nhanh, khiến mục tiêu nợ xấu dưới 3% khó đạt được.
Trước thực tế này, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các ngân hàng tích cực phòng ngừa rủi ro, đẩy mạnh trích lập dự phòng. Ngân hàng đã cho phép các ngân hàng trích lập trong 3 năm mỗi năm tối thiểu 30% nợ cơ cấu lại. Theo Phó Thống đốc Đào Minh Tú, việc dự phòng sẽ phụ thuộc vào tình hình tài chính của các ngân hàng.
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu cũng cho rằng, để kiểm soát rủi ro nợ xấu ngoài việc chủ động trích lập dự phòng rủi ro cho các khoản nợ xấu và tiềm ẩn nợ xấu thì cần theo dõi chặt diễn biến các khoản nợ. Các ngân hàng cũng nên xem xét lập quỹ dự phòng rủi ro đủ lớn để xử lý các khoản nợ xấu trong tương lai.
Tuy nhiên, không phải ngân hàng nào cũng dồi dào nguồn lợi nhuận, do đó, nhiều ngân hàng vẫn gặp khó khăn trong trích lập dự phòng, tỷ lệ bao phủ nợ xấu vẫn ở mức "khiêm tốn". Cụ thể, có thể kể đến Ngân hàng TMCP Xăng Dầu Petrolimex (PGBank) tỷ lệ bao phủ nợ xấu đến hết tháng 6/2021 mới chỉ đạt 33%, Ngân hàng Bản Việt là 44%...
Để kiểm soát và hạn chế nợ xấu phát sinh, nhiều ý kiến cho rằng, sớm hoàn thiện khung khổ pháp lý về xử lý nợ xấu, tiến tới thành lập thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp tại Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước cũng đang trình Quốc hội đánh giá tổng kết Nghị quyết số 42/2017/QH14, đề xuất Quốc hội xem xét việc rà soát, nghiên cứu để luật hóa các chính sách quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 để tiếp tục triển khai, áp dụng trong xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng theo hướng ban hành một luật riêng quy định về xử lý nợ xấu.
Ngân hàng Nhà nước cho rằng, việc ban hành Luật về xử lý nợ xấu sẽ giúp chính sách xử lý nợ xấu tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 được duy trì, giúp tổ chức tín dụng đẩy nhanh việc xử lý nợ xấu. Đồng thời, thu hồi vốn nhanh, khơi thông nguồn vốn cho tổ chức tín dụng hoạt động; đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu của tổ chức tín dụng và tránh các nguy cơ tiềm ẩn của nền kinh tế.
Lấy ý kiến về dự thảo quy định bảo lãnh ngân hàng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lấy ý kiến của nhân dân đối với dự thảo Thông tư quy định về bảo lãnh ngân hàng thay thế Thông tư số 07/2015/TT-NHNN ngày 3/10/2012 và Thông tư số 13/2017/TT-NHNN ngày 29/9/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 07/2015/TT-NHNN. Khách hàng giao dịch tại Hội sở chính Vietcombank, Hà Nội....