Cơn sốt nóng trái phiếu doanh nghiệp và hệ lụy cần lường
Nếu doanh nghiệp được huy động vốn trái phiếu gấp 5 lần vốn chủ sở hữu tại thời điểm phát hành, liệu có thực sự an toàn?
Khi lãi suất tiền gửi tại các ngân hàng thương mại đang có xu hướng giảm dần, kênh đầu tư trái phiếu doanh nghiệp được coi là một lựa chọn tốt. Theo báo cáo của Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội, khối lượng phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ trong 5 tháng đầu năm nay là 91.616 tỷ đồng, tăng 15% so với cùng kỳ năm 2019. Đương nhiên, khi dòng tiền đổ vào nhiều, mức độ rủi ro cũng sẽ gia tăng.
Trong cơn sốt nóng của việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp, ràng buộc pháp lý về số lượng phát hành được cho là điều vô cùng cần thiết. Nghị định 81 vừa được ký ban hành đã đáp ứng được yêu cầu này khi quy định “mức dư nợ trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ tại thời điểm phát hành (bao gồm cả khối lượng dự kiến phát hành) không được vượt quá 5 lần vốn chủ sở hữu, theo báo cáo tài chính quý gần nhất tại thời điểm phát hành được cấp có thẩm quyền phê duyệt”. Thế nhưng, con số 5 lần vốn chủ sở hữu hiện đang gây nên nhiều băn khoăn.
Ngân hàng thương mại mua lượng lớn trái phiếu doanh nghiệp bất động sản. Ảnh minh họa
Căn nguyên có lẽ nằm ở dự thảo mà Bộ Tài chính đưa ra trước đó. Còn nhớ, Hiệp hội Bất động sản TP.HCM đã đưa ra văn bản góp ý, trong đó nêu quan điểm không cần thiết phải quy định dư nợ trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ không vượt quá 3 lần vốn chủ sở hữu tại thời điểm phát hành, như dự thảo của Bộ Tài chính, do tổng giá trị phát hành trái phiếu phụ thuộc vào nhu cầu vốn của từng loại hình doanh nghiệp. Đã không ghi nhận thêm tranh luận nào liên quan tới mức trần dư nợ trái phiếu nói trên và khi ban hành Nghị định, con số đưa ra vượt quá mọi kỳ vọng.
Sự lấn cấn sẽ chẳng nhiều như hiện tại nếu người đứng ra kêu đòi quyền lợi phát hành trái phiếu không phải ‘người nhà’ của giới bất động sản. Nên nhớ, trong 4 tháng đầu năm 2020, khối doanh nghiệp bất động sản trở thành nhóm doanh nghiệp huy động lượng vốn lớn nhất trên thị trường trái phiếu, khi chiếm tới 49,1% trong số 58.000 tỷ đồng tổng dư nợ trái phiếu doanh nghiệp giai đoạn này.
Nhóm doanh nghiệp này cũng đang dẫn đầu về lãi suất, với mức huy động kỳ hạn 2-3 năm lên tới 13%/năm. Cánh cửa đang rất rộng mở với doanh nghiệp bất động sản, lĩnh vực vẫn cầm cự được trong tình trạng trì trệ chung do dịch bệnh Covid-19. Thế nhưng, đây cũng là một lĩnh vực đầu tư tiềm ẩn nhiều hệ lụy khó lường. Xin lưu ý thêm, một số doanh nghiệp bất động sản có dư nợ trái phiếu doanh nghiệp lên tới 30 – 47 lần vốn chủ sở hữu.
Video đang HOT
Mặt khác, căn cứ nào để đưa ra mức trần huy động gấp 5 lần vốn chủ sở hữu cũng là câu hỏi lớn. Nền kinh tế chứng kiến số lượng không hề nhỏ những doanh nghiệp vay vốn ngân hàng gấp 10 lần vốn chủ sở hữu, thậm chí còn nhiều hơn thế nữa. Kênh huy động trái phiếu có thể là con đường làm trầm trọng hóa việc vay nợ nói trên, và khi nguồn tiền đổ vào những dự án kém hiệu quả, ngân hàng gánh nợ xấu, người dân sẽ cầm trong tay những tờ trái phiếu vô giá trị.
Đã vậy, nguy cơ nâng khống số vốn chủ sở hữu để quả bóng trái phiếu doanh nghiệp được thổi ra hết cỡ luôn hiện hữu, đặc biệt khi trình độ giám sát, thẩm định của các cơ quan hữu quan còn tương đối hạn chế.
Ai cũng biết, quy luật lạnh lùng của thị trường là lãi suất càng cao, rủi ro càng lớn, đồng nghĩa, bản thân những nhà đầu tư trái phiếu phải ý thức cuộc chơi luôn có được có mất. Thế nhưng, không vì thế mà giảm bớt mối lo…
Nhìn vào lĩnh vực bất động sản, nỗi thấp thỏm còn nhân lên gấp bội. Dữ liệu của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tính đến cuối tháng 3/2020, tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản tăng 1,23% so với cuối năm 2019, chiếm 19,31% tổng dư nợ tín dụng, tương đương 1,6 triệu tỷ đồng. Cộng với dự nợ trái phiếu doanh nghiệp bất động sản, cùng với những kênh đầu tư không chính danh khác, nếu tính đúng tính đủ, ngành kinh doanh này đang chiếm dụng tỷ lệ vốn tương đối lớn.
Đáng lưu ý, theo số liệu đưa ra tháng 9/2019, các ngân hàng thương mại mua tới hơn 20% tổng lượng trái phiếu do doanh nghiệp bất động sản phát hành. Mối liên kết chéo doanh nghiệp bất động sản – ngân hàng có thể hình thành mối quan hệ ràng buộc mang tính sinh tồn. Ngân hàng Nhà nước đã cảnh báo, bản thân ngân hàng thương mại cũng thừa đủ năng lực để nhận diện những mối nguy, nhưng thực trạng vẫn khó có thể khác khi bất động sản đang là nguồn hút tín dụng khả quan nhất.
May thay, những lo ngại nói trên có thể được hóa giải theo một cách hoàn toàn bất ngờ. Những đám mây u ám khiến người ta quên đi thực tế là, con số gấp 5 lần vốn chủ sở hữu kể trên chỉ là… mức trần theo đúng nghĩa đen của từ này. Sẽ có những hướng dẫn chi tiết về mức trần dư nợ trái phiếu cho từng ngành, từng lĩnh vực, trong đó bất động sản chắc chắn sẽ nằm trong khu vực cần cẩn trọng.
Có thể kỳ vọng về những viễn cảnh tích cực hơn. Trái phiếu doanh nghiệp bất động sản rõ ràng đang tạo nên nguy cơ không hề nhỏ cho sự ổn định của dòng tín dụng. Mối liên quan giữa ngân hàng thương mại và doanh nghiệp bất động sản rất cần được làm rõ, để phòng trừ mọi nguy cơ cho người gửi tiền nói riêng và cho sự an toàn của hệ thống ngân hàng thương mại nói chung. Không nên chần chừ nữa, đừng để mọi chuyện trở nên quá muộn màng.
Đối với từng doanh nghiệp, không quá khó giám sát hoạt động phát hành trái phiếu, căn cứ trên các tiêu chuẩn về mức độ an toàn vốn, dư nợ tín dụng, khả năng trả nợ… Cân nhắc cho huy động trái phiếu dựa trên các dự án kinh doanh có thể nên được đặt ra, để nhà đầu tư cá nhân có thêm thông tin để quyết định và chịu trách nhiệm với lựa chọn của mình.
Mức trần lãi suất huy động trái phiếu doanh nghiệp là một chỉ tiêu cần được kiểm soát. Tùy vào sự phát triển của nền kinh tế theo từng năm, mức lãi suất trái phiếu doanh nghiệp sẽ được điều chỉnh tương ứng. Ngoại trừ bất động sản, trong bối cảnh hiện tại, khó ngành nghề kinh doanh nào có thể kinh doanh có lãi khi phải huy động vốn với mức lãi suất lên tới 13 %/năm. Nhưng nếu bất động sản hút quá nhiều tín dụng của nền kinh tế, cơ hội tồn tại của những doanh nghiệp vốn đã lao đao bởi đại dịch Covid-19 sẽ càng… nhỏ nhoi.
Trong trường hợp xấu nhất, khi doanh nghiệp khát vốn buộc phải huy động tín dụng với lãi suất quá cao, sẽ xảy ra tình trạng tương tự người khát buộc phải uống nước biển. Cơn khát không được giải tỏa mà chỉ ngày càng giày vò hơn. Các nhà quản lý hoàn toàn có thể tháo gỡ vướng mắc này.
Doanh nghiệp bất động sản tiếp tục dẫn đầu "cuộc chơi" trái phiếu doanh nghiệp, ngân hàng dè dặt
Hơn một nửa tổng lương TPDN phát hành tháng vừa qua thuộc về các doanh nghiệp bất động sản.
Theo thông tin cập nhật của Trung tâm phân tích và tư vấn SSI Research, tổng lượng phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) trong tháng 1/2020 là 13.374 tỷ đồng trong đó nhóm các doanh nghiệp bất động sản phát hành 7.364 tỷ đồng, tương đương 55% tổng lượng phát hành. Lãi suất phát hành bình quân toàn thị trường là 10,03%/năm và kỳ hạn bình quân là 4,98 năm.
Là một chủ thể phát hành trái phiếu khá tích cực trong năm 2019 song tháng đầu năm 2020 các ngân hàng lại khá dè dặt khi lượng trái phiếu phát hành chỉ chiếm 2,1% trong tổng khối lượng TPDN phát hành, các định chế tài chính cũng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ 1,8%.
Cơ cấu phát hành TPDN tháng 1/2020 (nguồn SSI Research)
Về phía bên mua, nhà đầu tư cá nhân mua 2.354 tỷ đồng trái phiếu trong đó ngoại từ 240 tỷ trái phiếu của MBS, 255 tỷ đồng trái phiếu của TPB, phần còn lại đều là mua trái phiếu các doanh nghiệp bất động sản.
Các ngân hàng thương mại và công ty chứng khoán mua 2.733 tỷ đồng TPDN trong tháng 1 gồm: VPB mua toàn bộ 1.598 tỷ đồng trái phiếu của CTCP City Garden và 125 tỷ đồng trái phiếu của CTCP TM-DL-ĐT Cù Lao Chàm; Techcombank và TCBS mua 950 tỷ trái phiếu Vinfast; MB mua 60 tỷ đồng trái phiếu của CTCP Phú Tài. Tổ chức nước ngoài mua 98,2 tỷ đồng, còn lại ghi chung là tổ chức trong nước.
N. Toàn
Theo Tài chính Plus
Minh bạch chợ trái phiếu doanh nghiệp Thống kê từ các sở giao dịch chứng khoán cho thấy, tổng lượng trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) phát hành từ đầu năm 2020 đến nay, ước tính 159.000 tỷ đồng, tăng 50% so cùng kỳ năm 2019. Tỷ lệ nhà đầu tư cá nhân đầu tư vào TPDN tăng lên gần 30% trong những tháng đầu năm 2020, so với mức 9%...