Cơ hội nào cho các ngân hàng Việt thời covid 19?
Các ngân hàng được dự báo sẽ kinh doanh khó hơn, nhưng trong khó khăn lại sinh ra nhiều cơ hội, mà một trong số đó là tăng thêm nguồn thu từ dịch vụ…
Ảnh minh họa
Theo TS.LS. Bùi Quang Tín, dịch covid 19 không chỉ gây ảnh hưởng hay tác động tiêu cực tới nền kinh tế Việt Nam mà nó còn tác động hết sức tiêu cực đến nền kinh tế toàn cầu. Rất nhiều tổ chức lớn trên thế giới ví dụ như IMS Bank trong những ngày vừa qua đã hạ dự báo nền kinh tế thế giới từ 0,1 – 0,5 điểm %.
Đối với nền kinh tế Việt Nam, nếu covid-19 được kiểm soát ở quý II thì kinh tế Việt Nam sẽ đạt mức khoảng 6,3%. Còn nếu như dịch bệnh này đạt đỉnh điểm mà Việt Nam và các nước kiểm soát được ở cuối quý II thì mức tăng trưởng kinh tế Việt Nam cả năm chỉ là 6 %. Điều đó cho thấy rằng nền kinh tế Việt Nam chịu rất nhiều thách thức.
Đối với hoạt động tài chính ngân hàng, từ tháng 1/2020 các ngân hàng lớn đã dự báo rằng mức tăng trưởng của năm 2020 tăng khoảng 10% tức là thấp hơn so với tăng trưởng lợi nhuận của năm 2019 (15 %). Tuy nhiên, các ngân hàng và các đơn vị tài chính trung gian khác cũng lại có rất nhiều cơ hội để họ tự nỗ lực, nhìn nhận thách thức và vượt qua các thách thức đó bằng chính những nền tảng các nguồn lực sẵn có của mình.
Và T.S Bùi Quang Tín nhận định, có 4 cơ hội để các ngân hàng vươn lên cũng như vượt qua được thách thức trong năm nay.
Thứ nhất là xử lý nợ xấu. Nếu so sánh với năm 2019, nhìn một cách tổng thể, tổng nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam là 78.522 tỷ đồng, tăng 41% so với đầu năm 2019 và rất nhiều ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu dưới 3%, có 1 ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu trên 3 %. Tuy nhiên, nhìn theo xu hướng tích cực thì có 11 trong số 35 đơn vị ngân hàng đã mua lại sạch nợ xấu từ VAMC như VIB, Vietcombank, Techcombank, TPBank, Nam A Bank, Agribank, Kienlongbank, MBBank… Đây được xem là một tín hiệu khá tích cực khi mà hệ thống các ngân hàng đang nỗ lực trong việc xử lý nợ xấu.
Nhìn chung số lượng ngân hàng mua lại nợ xấu càng tăng lên thì càng cho thấy hệ thống các ngân hàng đã đủ nguồn lực tài chính, cũng như là cách thức, phương thức… để đủ khả năng giải quyết nợ xấu.
Theo thông tư 02 (02/2013/TT-NHNN) và thông tư 19 (19/2013/TT-NHNN) thì khi ngân hàng (NH) mua lại nợ xấu và xử lý nợ xấu một cách triệt để thì NH đó có cơ hội hoàn nhập được dự phòng, sau đó chắc chắn lợi nhuận của ngân hàng sẽ tăng lên rất nhiều và đây là một trong những triển vọng rất lớn. Trước đó, NH có rất nhiều cách để tăng lợi nhuận và kinh doanh ví dụ như tăng cường cho vay. Bởi nguồn thu từ cho vay từ cấp tín dụng chiếm 70% nên các NH sẽ nỗ lực cho vay, nhưng cho vay tăng lên đồng nghĩa là các nợ xấu sẽ tăng lên.
Trong năm nay, nhìn chung các doanh nghiệp, các ngành nghề đều làm ăn không thuận lợi, nhưng nếu các ngân hàng thay vì việc cho vay thì họ kiểm soát tốt việc cho vay và kiểm soát tốt các rủi ro cũng như nỗ lực trong vấn đề xử lý nợ xấu tồn đọng trong những năm vừa qua thì chắc chắn sẽ là một cách để tăng lợi nhuận hiệu quả. Mặt khác, khi kiểm soát tốt nợ xấu thì lợi nhuận của NH trong năm 2020 sẽ là lợi nhuận thực chất, lợi nhuân ghi nhận được doanh số tức là lợi nhuận đó tồn tại giống như “tiền tươi thóc thật”, điều đó còn tốt hơn việc tăng cường cho vay. Bởi lẽ, nếu ngân hàng tăng cường cho vay mà quán lý nợ không tốt thì chỉ dự thu được các khoản lãi từ các hoạt động cho vay mà không chắc là lợi nhuận thực chất của NH.
Nhìn chung nếu NH kiểm soát tốt hoạt động cho vay trong khẩu vị rủi ro hợp lý của mình và xử lý tốt các nợ xấu trong những năm vừa qua thì có thể xem như là cơ hội lớn cho hệ thống NH để họ vực dậy một cách mạnh mẽ.
Thứ hai là nỗ lực tuân thủ Basel 2: Tuy rằng Ngân hàng nhà nước (NHNN) cho thời gian là 3 năm kể từ 1/1/2020 là thời gian chính thức áp dụng thông tư số 41/2016, nhưng với tình hình hiện nay NHNN đã lới lỏng thời hạn áp dụng trong thông tư số 41/2016 ra hơn 3 năm. Đến thời điểm này đã có 19 NH tuân thủ Basel 2. Do vậy, nếu các NH còn lại kết hợp cùng với 19 NH trên áp dụng đúng, đủ các quy định, tiêu chuẩn trong Basel 2 (cụ thể hóa trong thông tư 41) thì chắc chắn rằng việc tuân thủ đúng Basel 2sẽ giúp cho các hệ thống ngân hàng Việt Nam vừa kinh doanh hiệu quả vừa quản lý tốt được rủi ro, và lúc đó các NH sẽ tăng cường kiểm tra, kiểm soát nội bộ, minh bạch hóa các thông tin, đặc biệt là tuân thủ tỉ lệ an toàn vốn mới (chỉ số CAR). Và khi hoạt động kinh doanh đi liền với việc quản lý tốt rủi ro thì NH sẽ có cơ hội đạt lợi nhuận thực chất vào năm 2020.
Video đang HOT
Thứ ba là đồng lòng theo chính sách của NHNN: Hiện nay các NH đã đồng lòng theo chính sách của NHNN đó là hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp, cho người dân đặc biệt là những trường hợp bị thiệt hại, tổn thất vì dịch covid-19 để họ kinh doanh. Theo như chính sách của NHNN thì nhìn bề ngoài có vẻ như các hệ thống NH sẽ bị thiệt. Tuy nhiên, nếu nhìn một cách tổng thể thì nếu NH nào có nhiều chính sách hỗ trợ khách hàng trong mùa dịch covid 19 thì NH đó sẽ tăng được nguồn thu. Bởi vì nếu NH mà tăng về nguồn thu khách hàng thì hoạt động kinh doanh sẽ tốt hơn.
Hiện nay, những chính sách đang được các NH áp dụng trong mùa dịch covid-19 đó là chính sách miễn giảm các phí dịch vụ như: dịch vụ về thanh toán điện tử, dịch vụ về thông tin tín dụng,.. Bên cạnh đó NH sẽ khuyến khích khách hàng giao dịch online, hạn chế sử dụng tiền mặt hay một số NH còn tiến hành giảm lãi cho vay đối với khách hàng mà họ chứng minh được thiệt hại do dịch covid-19. Ngoài ra, NH còn giảm mức thu dịch vụ thông tin tín dụng từ hệ thống CIC. Điển hình như hàng loạt ngân hàng đã giảm lãi suất gồm Vietcombank, BIDV, Sacombank, ACB, VPBank, SHB…mức giảm từ 0,5 điểm % cho đến 3 điểm % tùy từng ngân hàng – là mức giảm rất lớn.
Với những chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp cũng như khách hàng như trên thì các NH sẽ tạo được niềm tin với khách hàng, khiến khách hàng không quay lưng lại, cũng không tìm một đơn vị phục vụ khác mà họ sẽ tiếp tục gắn bó với những ngân hàng mà họ đã liên kết trong nhiều năm qua. Đồng thời điều này cũng tạo điều kiện tăng nguồn thu cho hệ thống NH.
Thứ tư là hệ thống NH sẽ nỗ lực tăng nguồn thu về dịch vụ: Đa số các NHVN đều có nguồn thu về cho vay hơn là nguồn thu từ dịch vụ ( khoảng 10 – 15% ). Chỉ một số NH lớn mới có nguồn thu từ dịch vụ tăng cao còn lại những NH nhỏ lẻ hay NH trung bình khác thì có nguồn thu từ dịch vụ chỉ chiếm khoảng 20%. Cho nên trong giai đoạn dịch covid-19 này, đó cũng vừa là thách thức vừa là một có hội để NH trong năm 2020 thay đổi cơ cấu nguồn thu.
Do khi có nguồn thu từ dịch vụ tăng cao thì lúc đó hoạt động kinh doanh của NH vừa hiệu quả lại vừa giảm đi rủi ro, vì nguồn thu dịch vụ chỉ sử dụng năng lực của người nhân viên chứ không phụ thuộc vào nguồn vốn, cho nên đây chính là một cách để NH có thời gian cơ cấu lại nguồn vốn, nguồn thu, trong đó có những nguồn thu từ dịch vụ ví dụ như việc liên kết với bảo hiểm. Các NH sẽ tăng cường kết hợp với các công ty bảo hiểm, đặc biệt trong năm nay dịch bệnh covid-19 tăng cao thì các sản phẩm bảo hiểm giúp người dân phòng ngừa, hạn chế rủi ro, lúc đó NH sẽ có nhiều điều kiện để tăng nguồn thu về dịch vụ thông qua sản phẩm.
Ngoài ra các NH sẽ tăng cường các dịch vụ về cung cấp tài chính, tư vấn giải pháp tài chính, kinh doanh và nguồn thu từ việc kinh doanh ngoại tệ, kinh doanh thẻ… Trong năm nay, các hoạt động cho vay có khả năng sẽ bị thu hẹp lại, nhưng nếu các NH tăng cường đội ngũ có trình độ, đội ngũ phát triển dịch vụ để tiếp tục đồng hành và hỗ trợ khách hàng thì nguồn thu của ngân hàng chắc chắn có điều kiện tăng cao. Đặc biệt, nguồn thu chuyển hướng từ cho vay sang dịch vụ càng nhiều thì NH kinh doanh càng tốt.
Với 4 lý do trên đây thì trong năm 2020 hệ thống NH có thể kinh doanh tốt từ các chính sách hỗ trợ từ các ban ngành. Đặc biệt là khi Thủ tướng có cuộc họp với Bộ tài chính và yêu cầu, chỉ đạo Bộ tài chính phải đồng hành cùng các Bộ ban ngành khác và của nhà nước thực hiện các chính sách trong việc giảm phí, giảm thuế cho các doanh nghiệp khó khăn ở các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong lĩnh vực đang chịu thiệt hại lớn như: xuất nhập khẩu nông sản, vận tải, du lịch… Bên cạnh các chính sách của NHNH thì cơ hội kinh doanh cho các ngân hàng Việt Nam hiện nay là rất lớn trong năm 2020 này.
Phạm Hậu (ghi)
Theo Trí thức trẻ
Nhiều ngân hàng vượt kế hoạch lợi nhuận 2019
Năm tài chính 2019 sắp khép lại với gam màu sáng đối với ngành ngân hàng, trong đó nhiều nhà băng công bố vượt kế hoạch lợi nhuận đề ra.
Vượt mục tiêu lợi nhuận...
Tại cuộc họp mới đây giữa VietinBank và cổ đông chiến lược MUFG Bank, ông Lê Đức Thọ, Chủ tịch HĐQT VietinBank cho biết, kết thúc năm tài chính 2019, VietinBank nhiều khả năng sẽ đạt, thậm chí vượt kế hoạch lợi nhuận cả năm đã được Đại hội đồng cổ đông phê duyệt hồi đầu năm là 9.500 tỷ đồng trước thuế.
Kết thúc 9 tháng đầu năm, Ngân hàng đạt hơn 8.400 tỷ đồng lãi trước thuế, hoàn thành 89% kế hoạch năm.
Với BIDV, một lãnh đạo ngân hàng này thông tin, ước tính cả năm nay, tổng vốn huy động của Ngân hàng đạt 1,135 triệu tỷ đồng; dư nợ cho vay đạt khoảng 1,09 triệu tỷ đồng; lợi nhuận trước thuế cả năm sẽ hoàn thành mục tiêu đề ra là 10.300 tỷ đồng, hoặc có thể vượt chỉ tiêu.
Với mục tiêu lợi nhuận đưa ra cho năm 2019 ở mức 1.220 tỷ đồng trước thuế, ông Phạm Duy Hiếu - Quyền Tổng giám đốc ABBank cho biết, Ngân hàng đã hoàn tất kế hoạch kinh doanh Đại hội đồng cổ đông (ĐHCĐ) giao, với mức tăng trưởng khoảng 30% so với năm 2018.
Tỷ lệ nợ xấu của ABBank được kiểm soát ở mức 1,8% tính đến hết tháng 11/2019.
Mới đây, ABBank đã đưa vào vận hành Hệ thống tính toán tài sản có rủi ro (RWA), qua đó hoàn tất nền móng đầu tiên trong lộ trình tuân thủ Basel và Thông tư 41/2016/TT-NHNN.
Lợi nhuận cũng tăng trưởng ở mức cao, gần gấp rưỡi so với thực hiện năm 2018, VIB ước lãi hơn 4.000 tỷ đồng trong năm 2019 và là mức kỷ lục của nhà băng này từ trước đến nay.
Tại VietBank, so với mục tiêu lợi nhuận tối thiểu 500 tỷ đồng trước thuế đặt ra đầu năm, Ngân hàng hiện đã vượt.
Kết thúc 3 quý đầu năm nay, VietBank thu về 429 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế. VietBank dự kiến sẽ đạt mức lợi nhuận trên 650 tỷ đồng trước thuế sau khi trừ chi phí dự phòng rủi ro.
Tại Nam A Bank, ông Trần Ngọc Tâm, Tổng giám đốc Ngân hàng cho biết, chỉ tiêu lợi nhuận đưa ra cho năm 2019 là 800 tỷ đồng trước thuế, đến nay Nam A Bank đã hoàn tất kế hoạch này.
... Một phần nhờ tích cực xử lý nợ xấu
Theo lãnh đạo nhiều ngân hàng, lợi nhuận 2019 sớm cán đích một phần lớn nhờ tích cực xử lý nợ xấu, qua đó giảm trích lập dự phòng và hoàn nhập dự phòng.
Tính đến cuối tháng 6/2019, Nam A Bank đã xử lý hết các khoản nợ xấu đã bán cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC).
Nhờ tất toán được trái phiếu VAMC, chi phí dự phòng của Nam A Bank giảm mạnh, tính đến hết tháng 9/2019 ở mức 46 tỷ đồng.
Tương tự, Kienlongbank đã tất toán toàn bộ trái phiếu VAMC, nên dự phòng quý cuối năm được cho là sẽ giảm mạnh, tác động tích cực lên lợi nhuận.
Năm nay, Kienlongbank đặt mục tiêu lợi nhuận trước thuế 306 tỷ đồng và kết thúc 9 tháng đầu năm đã đạt 236 tỷ đồng, tăng 6% so với cùng kỳ năm 2018 và hoàn thành hơn 77% kế hoạch năm.
Với OCB, mục tiêu lợi nhuận đưa ra cho năm 2019 là 3.200 tỷ đồng và thu về gần 2.000 tỷ đồng trong 9 tháng đầu năm nay, tức mới hoàn thành 62,5% kế hoạch lợi nhuận cả năm, song theo ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng giám đốc OCB, Ngân hàng tự tin hoàn tất mục tiêu lợi nhuận đề ra bởi đã tất toán trái phiếu VAMC, nên khoản dự phòng rủi ro không còn tăng cao như trước.
Tại Agribank, lợi nhuận trước thuế 10 tháng đầu năm 2019 đạt 10.350 tỷ đồng, vượt kế hoạch cả năm đề ra là 10.000 tỷ đồng.
Dự kiến năm 2019, Agribank sẽ đạt lợi nhuận tối thiểu 11.000 tỷ đồng. Theo tính toán, nếu giữ tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận thuần cả năm nay tương tương với tốc độ tăng trưởng nửa đầu năm (15%), để đạt 11.500 tỷ đồng lợi nhuận, Agribank sẽ phải trích lập dự phòng 21.833 tỷ đồng, cao hơn cả năm 2018.
Tuy nhiên, điểm tích cực là hoạt động xử lý đã và đang được Agribank đẩy nhanh. Tính đến cuối tháng 6/2019, trái phiếu đặc biệt VAMC của Agribank đã giảm mạnh về 1.013 tỷ đồng, từ mức 7.750 tỷ đồng hồi đầu năm và Ngân hàng đã trích lập toàn bộ cho số trái phiếu đặc biệt này. Tỷ lệ nợ xấu của Agribank đến 31/6/2019 được kiểm soát ở mức 1,63%.
Tại BIDV, mặc dù ghi nhận sự tích cực về lợi nhuận, nhưng dự phòng rủi ro đang ở mức rất cao.
Tính đến cuối tháng 9/2019, dư nợ tín dụng của BIDV tăng 8,1% so với đầu năm, lên 1,07 triệu tỷ đồng, trong đó trích lập dự phòng tăng 5.136 tỷ đồng, lên 17.540 tỷ đồng, tương đương mức trích lập 1,66% trên tổng dư nợ, tăng hơn 41% so với đầu năm.
Riêng trong quý III, trích lập dự phòng tăng 1.416 tỷ đồng.
BIDV phải tăng dự phòng do tỷ lệ nợ xấu tăng, từ 1,9% đầu năm lên 2,08% tại thời điểm cuối tháng 9.
Đáng chu ý, trong khi nợ nhóm 3 và 4 tương đương với đầu năm, thì nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) đã tăng 5.023 tỷ đồng, lên 12.193 tỷ đồng, tương đương tăng 70%. Với việc nợ xấu tăng cao, dự phòng quý IV/2019 của nhà băng này sẽ khó giảm.
Có thể thấy, việc nhiều ngân hàng ghi nhận lợi nhuận cao trong năm 2019 bên cạnh nguồn thu từ tăng trưởng tín dụng, hoạt động dịch vụ, thì đóng góp từ giảm dự phòng rủi ro là không nhỏ.
Điều này được kỳ vọng sẽ tiếp tục tạo hiệu ứng tích cực cho năm sau khi có nhiều hơn ngân hàng toán hết trái phiếu VAMC, từ đó giảm dự phòng rủi ro, tăng lợi nhuận.
Theo Tinnhanhchungkhoan.vn
9 ngân hàng đã sạch nợ tại VAMC đang làm ăn thế nào? Vietcombank là ngân hàng lãi cao nhất hệ thống, Techcombank thì đứng đầu nhóm cổ phần tư nhân, ngay cả các ngân hàng nhỏ như Nam A Bank cũng thể hiện sự vượt bậc so với các đối thủ cạnh tranh ngang tầm... Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) ngày 24/12 cho biết đã tất toán trước hạn toàn bộ trái...