Chuyện về một liệt sĩ hy sinh 40 năm bị “lãng quên”
“Con tôi Võ Văn Bá (SN 1953), nhập ngũ tháng 2/1972 rồi biền biệt ra đi không về nữa. Thằng Bá con tôi nó ở mô?” – cu Ba, cu Ban – cha me liêt si Ba than van vơi chung tôi vê người con trai đã hy sinh 40 năm trước.
Hy sinh 40 năm không có giấy báo tử
Trong ngôi nhà cấp 4 được xây cất từ những năm trong chiến tranh, bây giờ đã xập xệ quá mức ở xã Đức Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An, cụ ông Lê Văn Ba và cụ bà Nguyễn Thị Ban, thân hình gầy guộc, đều ở tuổi 94-95, run rẩy nắm chặt tay tôi, ngước gương mặt già nua mà đôi mắt trũng sâu, đau đớn nói như cầu khẩn: “Con tôi Võ Văn Bá (SN 1953), nhập ngũ tháng 2 năm 1972 rồi biền biệt ra đi không về nữa. Thằng Bá con tôi nó ở mô?”…
Phiếu báo mộ liệt sĩ Lê Văn Bá tại nghĩa trang TPHCM.
Chị Lê Thị Kha, cô con gái thứ hai của hai cụ Lê văn Ba và Nguyễn Thị Ban không xây dựng gia đình, chỉ ý nguyện chăm sóc cha mẹ, trao cho tôi bát nước chè xanh nóng đặc sánh, nói trong nước mắt: “Cha mẹ tôi sinh hạ được 5 người con (1 trai 4 gái). Anh trai Lê Văn Bá là con trai cả. Ngày ấy anh Bá đang học cấp 3 trường huyện, nhưng năm đó giặc Mỹ leo thang ra đánh phá miền Bắc và cả làng quê nơi đầu nguồn sông Cả (Sông Lam) ác liệt lắm. Không ngờ đó là những ngày hè sục sôi tạo nên bước ngoặt cho anh Bá và mở ra thử thách lớn lao trong đời cha, mẹ và chị em chúng tôi. Vừa tốt nghiệp cấp ba trường huyện, anh về thưa với cha mẹ xin đi nhập ngũ; hứa đánh thắng giặc Mĩ anh sẽ về….
Ngày ấy các đồng chí lãnh đạo và Ban chỉ huy quân sự xã nói anh Bá là con trai một, không phải nhập ngũ; nhưng anh Bá cứ khăng khăng: “Con một mà không đi thì lấy ai đi tiếp tục đánh giặc nữa! Cả làng, cả xã ta có còn mấy trai làng nữa mô”. Thế là một ngày tháng 5 năm 1972 anh trai lên đường đánh giặc. Chiến trường mở rộng anh đi biền biệt không có một bức thư nào gửi về… (Ngừng lời chị vội đi lấy tập hồ sơ của anh trai mình gửi về). Chỉ có vẻn vẹn hai tờ giấy này thôi anh ạ!” – chị Kha nói đến đây thì òa khóc rưng rức.
Văn bản xác nhận quân nhân Lê Văn Bá là liệt sĩ của của Bộ tư lệnh Quân đoàn 4.
Trong hồ sơ của liệt sĩ Lê Văn Bá có một bức thư chia buồn của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Nghệ An đề ngày 30/10/1974 và Công văn số 1378/CS ngày 25/10/1978 (Công văn chuyển Di vật và tiền của liệt sĩ sau hy sinh) với nội dung: Kính gửi ông Lê Văn Ba, Đức Sơn, Anh Sơn, Nghệ Tĩnh. Chúng tôi báo tin để gia đình được biết: Đồng chí Lê Văn Bá – đơn vị KB đã hy sinh ngày 4/7/1973. Đơn vị chuyển giao số tiền riêng của liệt sĩ (5 đồng) về ty Thương binh – xã hội Nghệ Tĩnh ngày 2/11/1977.
Còn lá thư chia buồn của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Nghệ An do Trung tá Đặng Chính Đoàn ký. Lá thư có đoạn viết:”Chúng tôi thương tiếc báo tin gia đình ta biết đồng chí Lê Văn Bá đã từ trần ngày 4/7/1973 trong khi làm nhiệm vụ chiến đấu. Thi hài của đồng chí được đơn vị mai táng theo nghi thức quân đội ngoài mặt trận. Cán bộ chiến sĩ trong đơn vị vô cùng thương tiếc đồng chí Bá đã hy sinh và cũng rất tự hào vì đơn vị và gia đình có người thân đã nêu cao tinh thần chiến đấu hy sinh anh dũng vì “sự nghiệp chống Mỹ cứu nước”… Nhân dân và quân đội đời đời biết ơn đồng chí!”.
Phần mộ liệt sĩ Bá tại nghĩa trang TP HCM khi các đồng đội đứng bên cạnh.
Video đang HOT
Chúng tôi hỏi hai cụ thân sinh liệt sĩ Bá về giấy báo tử, hai cụ nói không có. Hỏi cấp ủy chính quyền tổ chức lễ truy điệu cho liệt sĩ Bá năm nào? Hai cụ cũng lắc đầu: “Nỏ có ai làm lễ lạt gì hết!”.
Đòi lại công bằng cho liêt si
Trong lúc đi tìm hiểu thực hư câu chuyện, chúng tôi may mắn được gặp những đồng đội của liệt sĩ Lê Văn Bá, cùng đơn vị đại đội 1, tiểu đoàn 1, lữ 24, Đoàn 75 pháo binh Biên Hòa thuộc Trung ương cục Miền Nam. Các cựu chiến binh là đồng đội của liệt sĩ Lê Văn Bá đều khẳng định binh nhất Lê Văn Bá đã hy sinh ngày 4/7/1973 tại mặt trận suối Ba Chiêm, ngã ba cây Sấy, đường lộ Đỏ, thuộc tỉnh Tây Ninh sau trận càn ác liệt của địch.
Ông Nguyễn Hữu Tuyên – nguyên Phó Phòng kinh tế, Giám đốc Trung tâm dân số và kế hoạch hóa gia đình của huyện Anh Sơn, đồng đội của liệt sĩ Lê Văn Bá – khẳng định: “Chính tôi và một số anh em trong đơn vị đã lượm và mai táng liệt sĩ Lê Văn Bá tại mặt trận suối Ba Chiêm. Năm 1978 tôi và một số anh em đã vẽ sơ đồ cho đội quy tập hài cốt liệt sĩ Bộ chỉ huy quân sự thành phố Hồ Chí Minh đưa về an táng tại nghĩa trang liệt sĩ thành phố Hồ Chí Minh. Sau này tôi cùng một số anh em trong ban liên lạc của đơn vị đã vào dâng hương trước anh linh của liệt sĩ Lê Văn Bá”.
Ông Nguyễn Hữu Tuyên trao cho chúng tôi hai tấm ảnh mộ của liệt sĩ Bá: một tấm chụp ảnh ngôi mộ của liệt sĩ là ngôi số 7, hàng 41, khu 20 rất đẹp được đặt trong khuôn viên nghĩa trang cũng rất sạch sẽ thoáng mát. Một tấm khác: đồng đội trong đơn vị, cũng là đồng hương, dâng hương trước anh linh liệt sĩ.
Chị Lê Thị Kha cùng ông Nguyễn Hữu Tuyên cho biết thêm: “Năm 2003, chúng tôi đã đến Ban chính sách Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Nghệ An tìm lại trong danh sách liệt sĩ thì được Thiếu tá Trần Hồng Ngọc, trợ lý chính sách, khẳng định không có tên liệt sĩ Lê Văn Bá trong danh sách liệt sĩ là con em Nghệ An hy sinh trên các chiến trường trong những năm đánh Mỹ. Bởi là liệt sĩ thì nằm trong danh sách tại Sở Lao động – Thương binh & Xã hội; còn tử sĩ thì nằm trong danh sách ở Bảo hiểm xã hội tỉnh quản lý”.
Trước đó chúng tôi cũng đã đến Sở LĐ-TB&XH thì được biết không có tên liệt sĩ Lê Văn Bá trong danh sách quản lý. Đến Bảo hiểm xã hội cũng được cán bộ quản lí hồ sơ lưu trữ nhiệt tình tìm kiếm nhưng kết quả vẫn là con số không.
Vậy câu hỏi đặt ra là: Tại sao Binh nhất Lê Văn Bá hy sinh ngày 4/7/1973, đã được Bộ chỉ huy quân sự gửi thư chia buồn (ngày 30/10/1974) và gửi giấy báo cho gia đình (ngày 25/10/1978), lại không được viết tên trong danh sách liệt sĩ của tỉnh?
Tháng 10/2010, sau khi nhận được đơn của chị Lê Thị Kha gửi Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 đề nghị xác nhận liệt sĩ Lê Văn Bá; Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 đã gửi Công văn số 502, ngày 14/12/2010 gửi Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Nghệ An.
Công văn này cũng được gửi cho gia đình liệt sĩ với nội dung như sau:
Kính gửi Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Nghệ An. Cục chính trị Quân đoàn 4 nhận được đơn của bà Lê Thị Kha (sinh năm 1960, quê quán xã Đức Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An) đề nghị xác nhận liệt sĩ Lê Văn Bá. Theo đơn trình bày của bà Lê Thị Kha, về trường hợp liệt sĩ Lê Văn Bá từ ngày hy sinh đến nay gia đình chưa nhận được giấy báo tử và hưởng các chế độ.
Sau khi nhận đơn của bà Kha, Cục Chính trí Quân đoàn 4 xác nhận và có ý kiến như sau: Qua truy lục hồ sơ lưu trữ có tên liệt sĩ Lê Văn Bá, sinh năm 1953, quê quán xã Đức Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An. Nhập ngũ: tháng 5 năm 1972. Đi B tháng 10 năm 1972; cấp bậc binh nhất; chức vụ: Chiến sĩ; Đơn vị C1, D1 lữ 24 (nay là lữ 434/QĐ4), hy sinh: ngày 4/7/1973; Nơi hy sinh: Lộ Đỏ, Kông Tum, Tây Ninh; Họ tên cha: Lê Văn Ba, mẹ: Nguyễn Thị Ban.
Trường hợp hy sinh: Bị nổ trái phá. Theo hồ sơ Quân nhân Lê Văn Bá được xác nận là liệt sĩ. Hiện mộ liệt sĩ Lê Văn Bá được an táng tại ngôi số 7, hàng 41, khu M20, NTLS TP Hồ Chí Minh.
Vậy, Cục chính trị xác nhận và thông báo cho các đồng chí được biết để giải quyết cho đương sự.
Với những hồ sơ có được, tháng 10/2010, cụ Lê Văn Ba gửi đơn đến Sở LĐ-TB&XH tỉnh đề nghị truy tặng bằng Tổ quốc ghi công cho con trai ông.
Công văn số 502 khẳng định liệt sĩ Lê Văn Bá đã hy sinh vì đất nước.
Tuy nhiên, sau gần 40 năm liệt sĩ hy sinh, gần 4 năm Bộ chỉ huy quân sự tỉnh nhận được công văn của Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 về xác nhận quân nhân Lê Văn Bá là liệt sĩ, gần 3 năm gia đình cụ Lê Văn Ba gửi hồ sơ, đơn đòi quyền lợi cho con, đến nay vẫn chưa có phản hồi gì từ cơ quan chức năng.
Theo Dantri
Mẹ liệt sĩ ôm hài cốt con khóc, chính quyền vẫn không cho đưa vào nghĩa trang
Liệt sĩ Đặng Trường Thanh - quê phường Đồng Tiến, thị xã Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình sinh năm 1953, hy sinh ngày 26/1/1973 do bị phục kích trong lúc vượt kênh Vĩnh Tế.
Mẹ Thược bên di cốt của con
Các thông tin này được ghi rõ trong hồ sơ của liệt sĩ tại Bộ tư lệnh Quân khu 7, cũng như gửi về tỉnh Hòa Bình năm 1975. Tuy nhiên, trong giấy báo tử gửi về cho gia đình lại ghi tên liệt sĩ là Đặng Văn Thành.
Mặc dù gia đình đã nhiều lần đề nghị sửa lại tên liệt sĩ cho đúng, nhưng gần 40 năm nay, trong các bằng Tổ quốc ghi công, Huân chương Chiến công Giải phóng, Huân chương Kháng chiến được Đảng, Nhà nước truy tặng cho liệt sĩ đều ghi là Đặng Văn Thành.
Câu trả lời nhà chức trách địa phương là: "Chúng tôi chỉ quản lý liệt sĩ có tên là Đặng Văn Thành thôi, chúng tôi không biết liệt sĩ Đặng Trường Thanh. Trong khi đó, gia đình bà Trần Thị Thược và ông Đặng Văn Sứ có hai người con trai đã theo tiếng gọi của tổ quốc lên đường ra trận, vì thành tích này, gia đình đã được chính phủ tặng bằng Gia đình vẻ vang năm 1974, trong bằng này cũng ghi rất chính xác tên người con cả là Đặng Trường Thanh."
Sự việc này đã cho thấy một lề lối làm việc tắc trách, thờ ơ đối với liệt sĩ, và gia đình, mẹ cha liệt sĩ, người đã không tiếc máu xương mình vì tổ quốc của chính quyền sở tại.
Câu chuyện thực ra bắt đầu từ việc tòa soạn báo chúng tôi nhận được thông tin của một số người dân tại địa bàn phường Đồng Tiến gửi đến, cho biết tại đây đang xảy ra một vụ việc gây bức xúc trong dân chúng, đó là việc chính quyền địa phương đã ngăn cản không cho gia đình bà Trần Thị Thược, mẹ liệt sĩ đưa hài cốt con vào nghĩa trang liệt sĩ của địa phương. Sự việc được mô tả như sau:
Sau nhiều lần vào Nam đi tìm mộ liệt sĩ Đặng Trường Thanh, tháng 8/2013, gia đình bà quả phụ Trần Thị Thược nhận được thư của anh Quyết, quê Thái Nguyên, là đồng đội của liệt sĩ Đặng Trường Thanh.
Trong thư nói rằng, ngày 27/7 vừa qua, anh Quyết đi thăm lại chiến trường xưa, xã Đông Lạc Quế, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang - nơi năm xưa cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, liệt sĩ Đặng Trường Thanh và nhiều đồng đội đã hy sinh trong một cuộc vượt kênh Vĩnh Tế, bị phục kích, bị thương và hy sinh.
Anh Quyết đã ghi rõ địa điểm cụ thể mà đồng đội đã chôn cất liệt sĩ. Cùng nơi đó, còn có mộ liệt sĩ Trần Văn Bình, quê Thái Bình, nhưng không rõ huyện, xã nào. So với hồ sơ lưu tại Quân khu 7 thì những thông tin này trùng khớp.
Từ bức thư này, các người con trong gia đình liệt sĩ đã lên đường đến Tịnh Biên, An Giang và đã được bà con nơi đây đón tiếp rất nhiệt tình, dẫn đường đến địa điểm và cùng gia đình khai quật mộ. Mộ của liệt sĩ Bình và liệt sĩ Thanh nằm cách nhau chừng 5m, gần 2 gốc cây thốt nốt.
Đến độ sâu 1m thì thấy hài cốt được chôn cùng lọ penixilin cùng cái đế của bình toong nước, bên trong ghi rõ tên liệt sĩ Đặng Trường Thanh trước sự chứng kiến của những người dân địa phương. Cái nắp lọ đã 40 năm khi mở ra bị mủn thành bột càng khiến mọi người xúc động. Khi được hỏi tại sao mộ các liệt sĩ không được đưa vào nghĩa trang của xã, thì được một nữ cán bộ nói rằng vì địa phương không biết.
Và cũng chính vì mộ không nằm trong sự quản lý của nghĩa trang nên đã không cần biên bản bàn giao hài cốt giữa chính quyền xã và gia đình liệt sĩ, mà chỉ có một giấy xác nhận của địa phương này về việc gia đình liệt sĩ đã đến tìm và xin phép được chuyển liệt sĩ về quê nhà.
Khá cẩn thận, người nhà liệt sĩ đã fax văn bản này về Phòng LĐTBXH tỉnh Hòa Bình để hỏi, thì cô Mai - người nhận fax - và một nhân viên nữa cùng nói rằng, giấy tờ như vậy là hợp lệ. Vậy là cả 4 anh em phấn khởi đưa hài cốt người anh lên đường trở về.
Thế nhưng khi liệt sĩ được đưa về đến quê nhà tại phường Đồng Tiến thì xảy ra sự việc chính quyền phường không cho đưa hài cốt liệt sĩ vào nghĩa trang. Lý do họ viện ra là không có giấy tờ bàn giao của địa phương tại An Giang. Họ nói rằng, gia đình phải tự đi tìm chỗ cho liệt sĩ, chứ họ không có trách nhiệm. Khi nào làm xong thì báo để họ đến thắp hương.
Trước tình cảnh như vậy, bà mẹ liệt sĩ quá đau lòng. Bà cứ ngồi ôm cái tiểu đựng nắm xương tàn của con trai khóc ngất. Mặc cho người nhà liệt sĩ năn nỉ, rằng cứ để liệt sĩ vào nghĩa trang, rồi mai mốt, gia đình sẽ vào An Giang xin giấy tờ bổ sung, nhưng cán bộ đại diện chính quyền phường Đồng Tiến không mảy may động lòng.
Trong tình cảnh tiến thoái lưỡng nan đó, không thể để mẹ già ôm hài cốt ngồi khóc, mấy anh chị em trong nhà liệt sĩ đã quyết định đưa anh vào khu mộ của gia đình.
Khi phóng viên tìm đến nhà thì liệt sĩ Đặng Trường Thanh đã mồ yên mả đẹp trong khu mộ gia đình, bên cạnh người cha. Mẹ liệt sĩ và những người con xác nhận toàn bộ những sự việc này và nói rằng, thôi thì con bà đã được đoàn tụ với gia đình là vui rồi, nhưng không chỉ gia đình bà, mà tất cả những ai chứng kiến sự việc đều không thể không phẫn nộ.
Hãy hình dung xem, khi những đứa con vàng ngọc, măng tơ lên đường bảo vệ tổ quốc, địa phương đã trống dong cờ mở như thế nào, mà trở về, đến cái tên cũng không được gọi cho đúng, còn một nắm xương cũng bị chối từ một chỗ nằm?
Theon Xahoi
Giúp người bị nạn, xe khách vào thế kẹt Khoảng 14 giờ ngày 6-12, trên Quốc lộ 1A (đoạn qua thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) xảy ra vụ tai nạn giữa 2 xe máy khiến 2 người bị thương. Vào thời điểm trên, ông Lê Văn Ba (SN 1952, ngụ huyện Quế Sơn) điều khiển xe máy BKS 92K8-5287 chạy hướng Quảng Nam - Đà Nẵng, đến...