Chuyện những người con lính lê dương tại Việt Nam – Kỳ 3: Nỗi buồn ven trời Tây Bắc
Tây Bắc, nơi người Pháp đặt cứ điểm Điện Biên Phủ rát lửa dạo nào, nay đã xanh cây. Đất và người nơi đây sau 60 năm đã hồi sinh, khó hình dung một thời nơi đây từng là chiến địa. Nhưng bên cạnh bao đầm ấm, no đủ và rộn rã ấy, vẫn còn sót lại những nỗi buồn số phận của “những đứa con lai”…
Bà Lường Thị Lao với nỗi buồn của thân phận mình
Nheo nhóc ở Pắp Pe
Bản Pắp Pe nằm sâu tít trong xã Thanh Hưng, giáp với biên giới Việt – Lào. Trong cộng đồng người Thái sinh sống khá đông ở Pắp Pe, lâu nay bà Lường Thị Lao vẫn được xem là “người đặc biệt”. Bà đặc biệt vì ngoại hình, vì tính cách, và cả vì xuất thân là một con lai không rõ cả cha lẫn mẹ.
Bà Lao được lấy họ Thái trong trường hợp hết sức đặc biệt. Theo lời kể từ mẹ nuôi Lường Thị Khón, người dân đã nhặt được bà Lao hồi cuối tháng 4.1954, khi Việt Minh tổng công kích lần 2 vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Trên đường lánh xa lửa đạn cùng dân bản Pắp Pe, Lường Thị Khón, lúc đó chỉ là một cô gái trẻ, đã phát hiện đứa bé đang gào khóc bên đường.
Ông Lường Văn Đăm với cái linh (nồi đồ xôi), kỷ vật còn lại duy nhất của bố ông mua tặng mẹ
Mặc dù trong lúc hỗn loạn, xót thương đứa bé, cô Khón quyết bế đứa bé theo. Sau những ngày náu giặc, không có ai tìm kiếm đứa bé, nên khi về lại Pắp Pe, cô Khón mang đứa trẻ ấy theo cùng.
Tuy đã hết lòng thanh minh, nhưng lúc ấy, ai cũng nghĩ và tin đứa trẻ kia là con của Lường Thị Khón. Nhiều người còn đơm đặt: Khón có con ngoài giá thú rồi gửi ai đó, đến nay mới đưa về. Cưu mang đứa trẻ, chấp nhận điều tiếng, cô Khón đành ở vậy và nuôi đứa con nhặt được.
Đến tận những năm 1970, cô Khón mới lấy được chồng. Chồng cô là bộ đội xuất ngũ, lên Điện Biên làm kinh tế. Mối lương duyên những năm cuối đời này, đã không cho họ một mụn con nào, ngoài đứa con nuôi tên Lường Thị Lao.
Bà Lao không biết nguồn gốc của mình. Chỉ biết rằng càng lớn lên bà càng khác người Thái ở bản. Những biểu hiện ngoại hình của bà cho người ta biết rằng bà là con lai, của một lính lê dương nào đó ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Vì ngoại hình hết sức đặc biệt và cao lớn quá khổ này, cũng như mẹ, Lao cứ sống mòn mỏi, hiu hắt bên bậu cửa, những buổi đi nương lặng lẽ một mình. Cũng vì ngoại hình mà Lường Thị Lao đã không có cơ hội đến trường, không biết chữ. Gần 32 tuổi, Lao mới gặp một thanh niên người Kinh lên kiếm việc làm và ngỏ lời yêu.
Sau lễ cưới giản dị theo phong tục người Thái, khi mầm sống trong bụng vừa tròn 2 tháng, chồng cô Lao bỏ bản Pắp Pe, đi đâu không rõ. Không biết quê chồng, cô Lao một mình nuôi con nơi xó rừng Pắp Pe. Đứa con trai của bà Lao sinh năm 1986, nay đã lấy vợ và có cháu.
Video đang HOT
Nhân gian có câu “không ai giàu 3 họ, không ai khó 3 đời”, nhưng cái khó đời thứ 3 trái quy luật này vẫn vận vào con trai bà Lao. Ngôi nhà bà Lao nghèo nhất bản Pắp Pe, dột thủng lung tung và không có gì đáng giá. “Đất có vậy, người lại thêm, có cố, có chăm cũng vẫn đói vẫn nghèo. Tôi đã không biết bố, giờ lại đến con. Buồn lắm!”, bà Lao thở dài, bỏ chuyện.
Điện Biên giờ là quê hương
Bên cạnh bản Pắp Pe là bản Mé, ở đây cũng có một người đàn ông “khác lạ” với thân hình vạm vỡ, da đen, môi dầy tên là Lường Văn Đăm.
Ông Đăm là kết quả của một mối tình có một không hai giữa một người lính da đen quân đội Pháp tham chiến ở Điện Biên Phủ với cô gái xinh đẹp có tên Lù Thị Đôi. Bố ông Đăm vốn là lính đóng tại Đồi A1 ngày xưa.
Những người già vẫn nhớ về mối tình có một không hai này. Năm 1953, Lù Thị Đôi bước vào tuổi 18. Trước khi để con trai trong bản ngó mắt đến thì Đôi đã được một người lính da đen chú ý. Vì bất đồng ngôn ngữ nên cô Đôi cũng không biết anh lính da đen kia tên gì, quốc tịch ở đâu.
Ngày ấy, khi Việt Minh chưa tấn công Đồi A1, người Pháp vẫn còn tự hào với cứ điểm của mình và thong dong đi lại. Chiều nào cũng vậy, cứ sau giờ luyện quân, chốt đồn, anh lính da đen kia lại tìm đến với gia đình cô Đôi.
Anh lính này hiền, thấy nhà có việc gì là làm giúp. Ban đầu thì gia đình và cô Đôi không ưng ý. Nhưng anh ta qua lại nhiều lần, khiến cô Đôi xiêu lòng. Biết gia đình cô Đôi ưng thuận, anh lính kia đã nhờ người phiên dịch cũng như những bạn lính của mình đến xin và tổ chức cưới cô Đôi.
Ông Lường Văn Đăm với ngoại hình đặc biệt
Cái thai trong bụng cô Đôi lớn dần, con chưa ra đời thì cũng là lúc Việt Minh tổ chức tấn công cứ điểm Điện Biên Phủ, trong đó có Đồi A1. Một chiều, chồng cô Đôi hốt hoảng chạy về. Giơ tay ra hiệu là mình sẽ phải đi xa, anh chồng da đen lấy vội mảnh giấy viết những dòng chữ lạ kỳ vào đó. Anh ta gào khóc, chào cô Đôi rồi chạy đi trong tiếng pháo kích cấp tập.
Cô Đôi mòn mỏi chờ đợi chồng và một mình vượt cạn. Đứa con sinh ra, cô Đôi đặt tên con là Đăm, theo tiếng Thái nghĩa là đen. Không được học hành, không công ăn việc làm nên ông Đăm đã lấy nghề nông làm chính và hiện ông Đăm đã có 6 đứa con, 3 con trai và 3 con gái.
Hỏi về gốc tích của mình, ông Đăm cho biết: “Tất cả các kỷ vật mà bố tôi để lại, kể cả mảnh giấy bố tôi viết về gốc tích của mình đều đã chôn cùng mẹ. Chuyện truy tìm nguồn gốc cũng chẳng là chuyện phải bận tâm nữa, vì giờ đây tôi đã coi mình là người Thái và Điện Biên là quê hương…”.
Theo TNO
Chuyện những người con lính lê dương tại Việt Nam - Kỳ 2: Những dòng họ cô đơn
Những con lai mang dòng máu Ma Rốc như Bình "tây", Đường "tây", Tuấn "tây", Tuấn "cô cô"... vẫn còn may mắn, vì họ còn có người cùng cảnh ngộ để chia sẻ, giãi bày. Nhưng những người như Bình "dế" (con lai Ý) hay ông Tạ Phú Bình, con của một lính viễn chinh Pháp, thì lại khác.
Ông Tạ Phú Bình ứa nước mắt khi kể về mối tình khá đặc biệt của cha mẹ mình
Lấy chồng ngoại vì... "tổ chức"
Từ Trung tâm Bảo trợ Xã hội Phú Thọ nhìn lên, nhà Hùng "dế" nằm chon von trên đồi, trông như thể tổ chim hiu hắt. Gặp Hùng "dế", nhìn bộ râu, vầng trán và mái tóc quăn của anh, người ta "đọc vị" ngay ra người Ý.
Hùng "dế" kể: Cha anh tên Gffacle, cũng là hàng binh tại chiến trường Điện Biên Phủ. Trước khi sang Việt Nam, ông Gffacle đã có vợ và 2 con ở nước sở tại. Sau thời gian tập trung và sinh sống tại Ba Vì, ông được bố trí làm công nhân Đội cầu 3 Đường sắt.
Ông Trần Văn Hùng hạnh phúc cùng vợ
Thời kỳ này, Mỹ mở rộng Chiến tranh phá hoại miền Bắc nên tuyến đường sắt Bắc - Nam đã bị đánh phá ác liệt và ông Gffacle cùng Đội cầu 3 được đưa vào khu vực Diễn Phúc (Diễn Châu, Nghệ An) để bảo vệ, duy tu và sửa chữa tuyến đường này.
Trong quá trình tìm kiếm tông tích của cha mình, một số người "con lai" đã xuống Hà Nội, tìm đến các cơ quan chức năng như Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, Bộ Công an để xin thông tin. Tuy nhiên, các thông tin họ thu nhận được đều có chung đáp số: Khi xảy ra chiến tranh biên giới phía Bắc tháng 2.1979, Kho tài liệu về các hàng binh trong chiến dịch Điện Biên Phủ do Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) quản lý được di chuyển vào phía Nam (cụ thể là khu vực Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa). Thậm chí có người còn được chỉ dẫn: "Vào Cam Ranh, tìm cái kho ấy để xin... thông tin". Thực tế, việc giúp con cháu những hàng binh tìm người thân, quê quán, họ hàng... đến nay vẫn đang là nhu cầu cháy bỏng của họ.
Tại đây, ông Gffacle gặp bà Trần Thị Lan. Bà Lan sinh ra ở Ninh Bình, nhưng phiêu bạt vào tận xứ Nghệ và xin vào thanh niên xung phong.
Đơn vị 2 người đóng gần nhau, ông Gffacle rất có cảm tình với bà Lan và việc yêu này được sự trợ giúp của... "tổ chức". Tuy không yêu nhưng vì tổ chức, để an lòng ông Gffacle, bà Lan đã chấp nhận lấy chồng ngoại.
Cuộc sống bất đồng ngôn ngữ (ông Gffacle học tiếng Việt rất kém), nhưng vẫn cho ra đời 4 người con với những cái tên Ý, trong đó anh Hùng được đặt là Raffacle. Cuộc sống của gia đình cha Ý mẹ Việt này cũng êm ấm cho đến năm 1970, theo chương trình hồi hương, ông Gffacle về nước.
Lúc này, luật pháp Ý rất nghiêm ngặt, trong đó có việc nghiêm cấm đàn ông lấy vợ 2 trong bất cứ hoàn cảnh nào. Phải về, muốn đem vợ con đi nhưng lại sợ những quy định nghiêm ngặt của nước mình nên ông Gffacle đành phải để vợ con lại. Sau đó, cũng như gia đình con lai Ma Rốc Trần Văn Bình, gia đình Hùng "dế" cũng được gom nhóm và đưa lên sinh sống tại Trại Tự lập (Trung tâm Bảo trợ Xã hội tỉnh Phú Thọ, ngày nay).
4 anh em của Hùng (3 trai, 1 gái) do cuộc sống cực nhọc nên đã lâm bệnh chết mất 2. Hiện nay, chỉ còn 2 anh em Hùng "dế" sinh sống với 8 người con của thế hệ thứ 3.
Cuộc sống đời thường của người con lai Ý - Việt Trần Văn Hùng
Anh Hùng cho biết, từ ngày cha về nước, vẫn có thư từ gửi lại cho mẹ cùng ảnh của vợ con bên Ý. Mỗi lần nhận thư, vì không biết tiếng Ý, mẹ anh lại đi cả chục cây số đường rừng lên tìm một ông giám đốc có tên Phượng biết tiếng Ý để nhờ đọc giúp thư. Trong thư, không biết cha trao đổi với mẹ những gì, nhưng mỗi lần về bà lại khóc nhiều hơn.
Sau khi cha về nước, mẹ anh lại phải đi đổi tên cho anh và cả 4 anh em đều mang họ mẹ. Sự nhìn nhận của xã hội ngày ấy khiến họ ít có cơ hội vươn lên. Hùng học hết lớp 2 rồi ở nhà giúp mẹ và chị gái nuôi 2 em.
Rất muốn tìm lại người cha, nhưng những lá thư do cha gửi cho mẹ từ nước Ý có tên và địa chỉ đàng hoàng đã bị trận lụt năm 1986 cuốn trôi. Cái tên Gffacle của người cha ký trong giấy khai sinh, đến nay không cơ quan nào "dám" giúp anh tìm lại được người cha và họ hàng bên Ý.
Khát vọng bên Thành cổ Sơn Tây
Mong ngóng tìm dấu tích người cha, đau đáu trong lòng ông Tạ Phú Bình (Bình "tây") cả nửa thế kỉ. Trong số những con lai, ông Tạ Phú Bình là người kém may mắn nhất, khi chưa xác định được nguồn gốc của mình.
Trong ngôi nhà nằm ngay gần ngã tư nơi giao cắt giữa Tỉnh lộ 87A và Quốc lộ 32 ông Bình kể: Sự có mặt của ông trên thế gian này bắt đầu từ một mối tình đầy lãng mạn, nhưng cũng hết sức điều tiếng giữa mẹ ông (bà Tạ Thị Thái) và ông Đội "sứt" đóng quân ở bốt Võng Xuyên (Nội Thôn, Võng Xuyên, Phúc Thọ, Hà Nội) trong những năm 1948 - 1949.
Người dân ở đây thời đấy cũng như mẹ ông đều không biết tên thật của bố ông là gì mà chỉ gọi bằng cái tên Đội "sứt" vì bố ông bị sứt một chiếc răng.
Thời đấy, một cô gái thôn quê Việt Nam yêu một người lính lê dương của quân đội Pháp là cả chuyện tày đình. Nhưng mẹ ông vẫn quyết định vượt qua tất cả để lấy bố ông. Cưới xong, hằng ngày bố ông vẫn vào bốt, tối lại về nhà. Ông Bình ra đời một ngày cuối năm 1949.
Theo lời mẹ ông: Đầu năm 1950, bố có nói là phải hành quân lên mạn Hòa Bình. Cuối năm 1951, một người lính da đen đóng cùng Bốt Võng Xuyên tìm về cho biết, bố ông đã tử nạn trên đường hành quân. Người lính này có ý định đưa ông đi nhưng mẹ giữ ông lại.
Khác với những người con lai như Bình "tây", Hùng "dế", Tuấn "cô cô", Tạ Văn Bình mang gen trội của bố. Ngoài mái tóc xoăn, ông còn có màu da đen và cặp môi dầy. Chính vì những "nhược điểm" này, nên ngày nhỏ cũng như hồi đi học ông thường bị cánh bạn xa lánh. Lớn lên, ông Bình lại mang họ của mẹ. Năm 1966, khi bước vào tuổi 17 ông làm đơn xung phong vào bộ đội và vào Nam chiến đấu. Sau giải phóng, ông về quê và công tác tại tỉnh đội Hà Tây, đến 1990 thì nghỉ hưu với quân hàm Đại úy.
Hiện nay trên mảnh đất Sơn Tây, ông Bình đã có 4 người con, 6 cháu nội ngoại và vẫn đau đáu muốn tìm tung tích cha đẻ của mình...
Thạch Lâm Sơn - Mai Thanh Hải
(còn tiếp)...
Theo TNO
Nhiều tài liệu quý chưa khai thác Các Trung tâm Lưu trữ quốc gia đang bảo quản nhiều tài liệu liên quan đến chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, chứa đựng nguồn thông tin phong phú, có độ tin cậy cao. Khối tài liệu này bao gồm 50 hồ sơ hành chính chủ yếu bằng tiếng Việt và tiếng Pháp, gần 100 bản đồ và hơn 200 bức ảnh....