Chuyên gia: COVID-19 khó lường, doanh nghiệp cần gói hỗ trợ lần 2
Các chuyên gia cho rằng cần sớm có gói hỗ trợ lần 2 để “cứu” doanh nghiệp do COVID-19 vẫn diễn biến khó lường và các gói cứu trợ lần 1 chưa hiệu quả như kỳ vọng.
Tuy COVID-19 cơ bản được kiểm soát ở Việt Nam nhưng những diễn biến phức tạp trên thế giới khiến các doanh nghiệp vẫn gặp khó trong kinh doanh. Trong khi đó, các chính sách hỗ trợ lần đầu đến nay vẫn chưa đem lại hiệu quả như kỳ vọng. Do đó, doanh nghiệp chờ đợi gói hỗ trợ lần 2 không chỉ đủ lớn, đủ mạnh, đủ nhanh mà còn phải thực chất để hồi sức cho nền kinh tế.
Tập trung hỗ trợ doanh nghiệp
Chia sẻ với VTC News, ông Vương Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho rằng, gói hỗ trợ lần 2 cần tập trung vào doanh nghiệp nhằm ngăn chặn và giảm thiểu tình trạng mất thanh khoản, phá sản, giải thể doanh nghiệp, tạo điều kiện để khu vực doanh nghiệp phục hồi nhanh khi tác động của đại dịch suy giảm và chấm dứt.
Doanh nghiệp hàng không chịu ảnh hưởng nặng nề bởi COVID-19.
Nguyên nhân do khu vực doanh nghiệp đóng góp trên 60% GDP của nền kinh tế với trên 758,6 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm trên 96% tổng số doanh nghiệp của cả nước, tạo việc làm cho gần 15 triệu lao động với mức thu nhập bình quân tháng đạt khoảng 9 triệu đồng/lao động.
Do đó sự phục hồi, tiến tới ổn định và phát triển của doanh nghiệp có vai trò vô cùng quan trọng trong ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội.
“Với thực trạng sức khỏe doanh nghiệp và những hệ luỵ từ đại dịch COVID-19, gói hỗ trợ lần thứ 2 cần tập trung đặc biệt vào khu vực doanh nghiệp để thực hiện đồng thời 2 nhiệm vụ: hỗ trợ doanh nghiệp duy trì sản xuất và cơ cấu lại nền kinh tế”, ông Lâm nói.
Tuy vậy, để doanh nghiệp có thể tiếp nhận hiệu quả gói hỗ trợ, Chính phủ cần rà soát các điều kiện. Thực tế trong thời gian thực thi gói hỗ trợ trị giá 250.000 tỷ đồng, nhiều điều kiện chưa phù hợp, phức tạp, thiếu khả thi và không sát thực tế đã khiến chỉ khoảng 20% doanh nghiệp đáp ứng được yêu cầu và tiếp cận được gói hỗ trợ này.
Vẫn theo ông Lâm, trong lần hỗ trợ này, cần tiếp tục gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất cho doanh nghiệp, đồng thời xem xét cắt giảm giá điện để giảm chi phí và áp lực tài chính ngắn hạn.
Đặc biệt cần ban hành và triển khai thực hiện một số chính sách đặc thù để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như du lịch, hàng không…
Video đang HOT
Nghiên cứu, ban hành và khẩn trương thực hiện chính sách kinh tế mới để “lôi kéo” doanh nghiệp tham gia hiệu quả vào quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đổi mới quy trình và công nghệ sản xuất trong điều kiện bình thường mới của nền kinh tế.
Ngoài ra, hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo lại, tăng cường kỹ năng cho người lao động để lực lượng lao động đáp ứng được nhu cầu lao động trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng phù hợp với những thay đổi của thế giới do đại dịch COVID-19 gây ra.
“Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều thay đổi sâu sắc và khác biệt do COVID-19, với thực tế kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, Chính phủ cần khẩn trương có chính sách vĩ mô dài hơi, các gói hỗ trợ cần được đưa ra thực hiện, điều chỉnh đúng lúc và kịp thời. Chính sách được thực hiện muộn sẽ không còn tác dụng”, ông Lâm nhấn mạnh.
Tránh dàn trải, đại trà
Đồng tình với quan điểm cần thêm gói hỗ trợ mới ngay lúc này nhưng PGS.TS Ngô Trí Long, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu giá (Bộ Tài chính) cũng nhấn mạnh: Gói hỗ trợ lần 2 cần tập trung vào những doanh nghiệp có quy mô đủ lớn, tài chính minh bạch, khả năng phục hồi cao và có tính lan tỏa.
“Chính phủ đã có những giải pháp rất kịp thời trong gói hỗ trợ lần 1 nhằm giải cứu một số khu vực kinh tế và hỗ trợ các đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Nhưng quá trình thực thi chưa hiệu quả như kỳ vọng, tỷ lệ giải ngân còn thấp. Gói hỗ trợ lần 2 cần xác định đúng đối tượng, trúng vấn đề, triển khai nhanh và thực chất. Muốn vậy, các điều kiện đưa ra phải phù hợp, sát với thực tế để doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận”, ông Long nói.
Theo ông Long, kinh tế nước ta còn nghèo, do đó việc thiết kế gói hỗ trợ lần 2 cần chọn lọc hơn, tránh đại trà, dàn trải. “Các chính sách và giải pháp của Chính phủ cần thực hiện kịp thời, đúng thời điểm vì chính sách được thực hiện muộn không còn tác dụng như mong muốn”, ông Long nhấn mạnh.
Cùng quan điểm, TS. Võ Trí Thành, thành viên Tổ tư vấn Kinh tế của Thủ tướng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược thương hiệu và Cạnh tranh cho rằng, dù Chính phủ đã rất nỗ lực, chính sách được chủ động ban hành kịp thời và quyết liệt song hiệu quả của gói hỗ trợ lần 1 còn khá thấp.
“Cần xem xét gói kích thích, hỗ trợ kinh tế lần 2 với quy mô đủ lớn, có kéo dài sang cả năm 2021 nhưng phải gắn với tái cấu trúc nền kinh tế và các xu thế phát triển mới trên thế giới”, ông Thành cho hay.
Theo TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng BIDV, gói hỗ trợ lần 2 cần triển khai cho vay lãi suất ưu đãi cho một số đối tượng rõ ràng, minh bạch, có lộ trình kết thúc cụ thể. Theo đó, xem xét cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi (thấp hơn thị trường khoảng 2%/năm) cho các doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính trong lĩnh vực rất khó khăn như vận tải, du lịch, dệt may, da giày, giáo dục – đào tạo…
Tiếp đến là thúc đẩy cho vay tiêu dùng (cơ bản là cơ chế) theo hướng hoàn thiện cơ chế, chính sách trong việc phân rõ hơn giữa cho vay tiêu dùng của công ty tài chính với ngân hàng thương mại; hoàn thiện hành lang pháp lý trong việc quản lý, giám sát các công ty tài chính và đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia, góp phần thúc đẩy tài chính ngân hàng số.
Bên cạnh đó, tăng cường cho vay tái cấp vốn và xem xét giảm phí bảo hiểm tiền gửi đối với các tổ chức tín dụng trên cơ sở phân loại tổ chức tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (từ quý 4/2020 đến hết năm 2021), để các tổ chức tín dụng có điều kiện tiếp tục giảm lãi suất cho vay.
PGS.TS. Bùi Đức Thọ, Phó Hiệu trưởng Đại học Kinh tế Quốc dân cũng kiến nghị Chính phủ cần có các hình thức hỗ trợ phù hợp với các doanh nghiệp ở từng ngành, lĩnh vực và từng giai đoạn. Bên cạnh đó, cần ưu tiên các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa bởi khả năng chống chịu kém.
“Về gói tiền tệ, cần nới lỏng các điều kiện tín dụng, miễn và giảm lãi. Chính phủ cần kéo dài thời gian các gói hỗ trợ để doanh nghiệp có đủ thời gian phục hồi sản xuất kinh doanh bền vững. Các chính sách hỗ trợ cần rõ ràng, minh bạch về thủ tục cũng như đối tượng được hưởng”, ông Thọ nhấn mạnh.
Vì sao phải gấp rút 'cứu' Vietnam Airlines?
Chuyên gia cho rằng là hãng hàng không quốc gia nên Vietnam Airlines cần thiết phải duy trì một cơ thể khỏe mạnh để làm nhiệm vụ bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước.
Chiều 17/11, Quốc hội đồng ý đề nghị của Chính phủ về các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho Vietnam Airlines trước ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch COVID-19. Nhận định việc hỗ trợ Vietnam Airlines là cần thiết, song vẫn có ý kiến băn khoăn "vì sao lại chỉ cứu Vietnam Airlines" trong khi nhiều hãng bay tư nhân khác cũng đang khốn đốn vì đại dịch?
Chính phủ với vai trò là chủ sở hữu
"Cứu" Vietnam Airlines không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là nhiệm vụ chính trị, xã hội.
Trả lời VTC News về trường hợp đặc biệt này, PGS.TS Ngô Trí Long, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu giá (Bộ Tài chính) đánh giá, việc "giải cứu" Vietnam Airlines là không sai nếu xét trên khía cạnh chủ sở hữu của Chính phủ. "Vietnam Airlines là hãng hàng không đầu ngành, năng lực cạnh tranh tốt, trước dịch COVID-19 làm ăn rất hiệu quả. Thứ nữa, Chính phủ với vai trò là chủ sở hữu phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp cần thực hiện các giải pháp để bảo vệ an toàn cho phần vốn của mình, đồng thời bảo đảm quyền lợi cho các cổ đông khác, người lao động và giữ ổn định hoạt động kinh tế nói chung", ông Long phân tích.
Bên cạnh đó, ông Long cho rằng, nếu không hỗ trợ Vietnam Airlines thời điểm này, hệ lụy sẽ vô cùng lớn, không những phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp đổ sông đổ bể mà an sinh xã hội cũng bị ảnh hưởng do hàng ngàn lao động mất việc. Tuy nhiên, về khía cạnh quản lý Nhà nước, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu giá cho rằng Chính phủ nên có các biện pháp mạnh tay để hỗ trợ cả các hãng hàng không khác.
Thực thế, việc Quốc hội đồng tình để Nhà nước hỗ trợ Vietnam Airlines không gây quá nhiều bất ngờ, bởi đã được giới chuyên gia dự đoán từ trước, sau khi phân tích nhiều nguyên nhân. Tại toạ đàm "Chủ sở hữu nhà nước: Hành động và trách nhiệm hậu COVID-19" - trường hợp Vietnam Airlines" do Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng tổ chức mới đây, các chuyên gia kinh tế cũng đã mổ xẻ vấn đề vì sao cần khẩn trương "cấp cứu" Vietnam Airlines.
Theo đó, TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế CIEM, cho rằng là hãng hàng không quốc gia nên Vietnam Airlines cần thiết phải duy trì một cơ thể khỏe mạnh để làm nhiệm vụ bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước và bộ mặt ngành hàng không những năm tiếp theo.
Nguyên Viện trưởng CIEM cũng lưu ý không nên dùng từ "giải cứu" với Vietnam Airlines bởi cần tránh nhầm lẫn giữa vai trò là cơ quan quản lý và vai trò chủ sở hữu của Chính phủ.
"Với các số liệu đầy đủ, minh bạch chứng minh tài chính bị ảnh hưởng do đại dịch và là trường hợp rất điển hình, Vietnam Airlines là hãng bay bị tác động sâu nặng nhưng cũng là nhân tố đầu tiên phục hồi nhanh nhất. Vietnam Airlines không phải là đơn vị phải xin Chính phủ hỗ trợ hay "giải cứu" mà Chính phủ với tư cách là chủ sở hữu phải có hành động cũng như trách nhiệm với các biện pháp hoặc chính sách tháo gỡ", ông Cung nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, nhiều ý kiến cho rằng Vietnam Airlines do Nhà nước nắm cổ phần chi phối nên khi làm ăn có lãi, lợi nhuận của Vietnam Airlines cũng là lợi nhuận của Nhà nước. Nay Vietnam Airlines gặp khó khăn vì dịch COVID-19, nên cổ đông Nhà nước cần có trách nhiệm với doanh nghiệp.
Ông Nguyễn Đức Kiên, Tổ trưởng Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng, cho biết, Chính phủ đã thống nhất không dùng từ "giải cứu" doanh nghiệp mà phải có hành động và trách nhiệm. Với trường hợp của Vietnam Airlines, Chính phủ đưa ra nhiều nhóm giải pháp lớn nhằm tháo gỡ khó khăn.
Tuy nhiên, ông Kiên cũng nhấn mạnh từ Chỉ thị 11 của Thủ tướng đến Nghị quyết 42 của Chính phủ, Nhà nước đã hỗ trợ chung cho ngành hàng không như giảm phí bãi đỗ, phí hạ cất cánh, đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giảm thuế xăng dầu, những gì thuộc thẩm quyền của Chính phủ cũng đã triển khai.
Chia sẻ với VTC News, ông Lưu Bình Nhưỡng (ĐBQH Đoàn Bến Tre) cũng khẳng định: Vietnam Airlines là doanh nghiệp đặc thù, do đó việc "cứu" hãng hàng không này không chỉ gói gọn trong vấn đề kinh tế.
" Vietnam Airlines là doanh nghiệp có đến gần 90% là vốn nhà nước. Tài sản của Vietnam Airlines là tài sản của nhà nước vì thế đặt vấn đề giải cứu chính là thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội chứ không còn là vấn đề kinh tế độc lập ", ông Nhưỡng nói.
Bên cạnh đó, ông Nhưỡng cho rằng nếu để Vietnam Airlines phá sản, sẽ kéo theo hệ lụy rất lớn, khiến hàng vạn lao động mất việc, các doanh nghiệp cung ứng cũng phá sản, ngân hàng lao đao, thậm chí ngân sách nhà nước cũng sẽ gặp khó.
Giải pháp đặc biệt cho tình thế đặc biệt
PGS.TS Trần Đình Thiên, Thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng, cho rằng, trong bối cảnh hiện tại, Nhà nước không đủ tiền để cứu tất cả doanh nghiệp. Do đó phải chọn những doanh nghiệp để khi cứu doanh nghiệp đó cũng là cứu nền kinh tế. "Tình thế đặc biệt phải có giải pháp đặc biệt, đưa giải pháp đặc biệt rồi xong cũng phải trao "kiếm lệnh" để thực thi giải pháp bởi nếu không sẽ bị trói buộc bởi rất nhiều quy định", ông Thiên nói.
Cùng quan điểm, ông Phạm Đức Trung, Trưởng ban Ban Nghiên cứu và Phát triển doanh nghiệp (CIEM) cho rằng cần xử lý tháo gỡ theo cơ chế đặc thù do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, không chỉ theo các khung pháp lý, quy định sẵn có. Việc này phải triển khai nhanh, ngay để có được các giải pháp khả thi, không tạo áp lực cân đối thu chi trong tương lai cho ngân sách và Vietnam Airlines. "Với vai trò chủ sở hữu, Chính phủ có thể hỗ trợ về thanh khoản, tăng vốn chủ sở hữu, cho vay về từ nguồn ngân sách nhà nước thông qua mua cổ phiếu phát hành thêm...", ông Trung nói.
Từ đó, ông Trung đề xuất, phần vốn do SCIC đầu tư vào Vietnam Airlines cần được xác định là tài sản của SCIC đầu tư vào doanh nghiệp khác và không nên áp dụng quy định về phạm vi đầu tư vốn nhà nước tại Nghị định 91 nêu trên. Đồng thời, việc SCIC đầu tư vốn vào Vietnam Airlines không trái với chức năng, nhiệm vụ của SCIC trong việc đầu tư, kinh doanh vốn.
Theo Nghị quyết vừa thông qua, Quốc hội cho phép Ngân hàng Nhà nước tái cấp vốn và gia hạn không quá hai lần với ngân hàng cho Vietnam Airlines vay bổ sung vốn hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Vietnam Airlines cũng sẽ chào bán thêm cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu để tăng vốn điều lệ theo quy định của Luật Chứng khoán, nhưng được miễn trừ điều kiện hoạt động kinh doanh phải có lãi năm liền trước khi chào bán.
Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) sẽ là đơn vị thay mặt Chính phủ đầu tư mua cổ phiếu thuộc quyền mua của cổ đông Nhà nước theo phương thức chuyển giao quyền mua, đồng thời, cho phép xác định việc đầu tư nêu trên thuộc dự án nhóm A.
Thấy gì khi ngân hàng lãi lớn từ cho vay tiêu dùng? Cho vay tiêu dùng được coi là "cứu cánh" cho ngân hàng trong bối cảnh dịch bệnh, song theo chuyên gia vẫn cần thận trọng để tránh rủi ro nợ xấu. Báo cáo kết quả kinh doanh 9 tháng của ngân hàng VPBank cho biết, lợi nhuận trước thuế của ngân hàng đạt gần 9.400 tỷ đồng, tương ứng với 92% kế hoạch...