Chương tiếp theo của khủng hoảng dầu là gì?
Giá dầu âm và những con tàu đầy dầu lang thang trên biển đẩy ngành công nghiệp này chuyển sang giai đoạn dừng hoạt động hàng loạt.
Tác động của việc dừng sản xuất – có thể ảnh hưởng đến người lao động, ngân hàng và kinh tế địa phương. Thảm hoạ này thúc đẩy các nhà lãnh đạo thế giới phải cắt giảm sản lượng dầu thô khai thác. Nhưng khi quy mô của cuộc khủng hoảng đã vượt qua những nỗ lực của họ, không thể ngăn giá xuống, việc đóng cửa giờ đã trở thành hiện thực.
“Chúng tôi đang tiến vào giai đoạn ‘end- game”, Torbjorn Tornqvist, người đứng đầu bộ phận giao dịch hàng hóa tại Gunvor Group, nói với Bloomberg. “Giai đoạn nửa đầu tháng năm có thể là đỉnh của cuộc khủng hoảng. Và chúng ta đang cách thời điểm đó tính theo đơn vị bằng tuần”.
Covid-19 đã xé toạc ngành công nghiệp dầu mỏ với nhiều sự kiện xuất hiện lần đầu trong lịch sử. Đầu tiên, đại dịch khiến nhu cầu sử dụng năng lượng giảm đột ngột, khi các nhà máy dừng sản xuất và người dân cách ly tại nhà. Sau đó, các kho lưu trữ bắt đầu bị lấp đầy và các thương nhân đã phải dùng đến những con tàu chở dầu với hy vọng “vàng đen” sẽ phục hồi. Tuy nhiên, giải pháp trữ dầu mang tính “phá cách” này đang khiến giá vận chuyển leo thang khi hết tàu chở dầu trống – một dấu hiệu cho thấy sự biến dạng của thị trường đang đến.
Về lý thuyết, việc giảm sản lượng đầu tiên lẽ ra phải đến từ các nước OPEC , vốn đã cam kết giảm từ đầu tháng tới. Tuy nhiên, sau khi giá dầu WTI xuống mức âm, các công ty dầu đá phiến của Mỹ đã “đi trước”.
Chỉ số tốt nhất đo lường sự vận động của ngành công nghiệp dầu mỏ Mỹ là số lượng giàn khoan đang hoạt động. Tuần trước, chỉ số này đã giảm xuống mức thấp trong bốn năm. Trước khi đại dịch bùng nổ, các công ty dầu vận hành khoảng 650 giàn khoan tại Mỹ, nhưng tới thứ sáu tuần trước, hơn 40% trong số này đã ngừng hoạt động, chỉ còn lại 378 giàn khoan.
Số lượng giàn khoan hoạt động tại Mỹ đã giảm hơn 40%. Ảnh: Bloomberg.
“Mọi người sẽ nhận ra rằng sản xuất cần phải chậm lại”, Ben Luckock, người đứng đầu mảng kinh doanh dầu tại Trafigura Group, cho biết. “Điều này sẽ khiến thị trường nhận ra mức độ nghiêm trọng của vấn đề”.
Trafigura, một trong những nhà xuất khẩu dầu thô lớn nhất tại Mỹ, tin rằng sản lượng dầu tại Texas, New Mexico, Bắc Dakota và các bang khác sẽ giảm nhanh hơn nhiều so với dự báo khi các công ty phản ứng với mức giá âm. Thực tế, giá âm vẫn tồn tại trong một số ngày cuối tuần này trên thị trường giao dịch trực tiếp.
“Mức độ nghiêm trọng của mức giá âm có khả năng trở thành chất xúc tác cho sự thay đổi ngay lập tức trong hoạt động và khả năng dẫn tới sự đóng cửa của những công ty khai thác dầu”. Roger Diwan, nhà phân tích dầu mỏ tại IHS Markit, nhận xét.
Video đang HOT
Các nhà sản xuất dầu thô South Texas Sour và Eastern Kansas Common đã phải trả hơn 50 USD một thùng để giảm sản lượng vào tuần trước. ConocoPhillips và nhà sản xuất dầu đá phiến Continental Resources đều đã công bố kế hoạch đóng cửa. Các nhà quản lý ở Oklahoma đã cho phép các nhà khoan dầu đóng cửa giếng mà không mất hợp đồng thuê, trong khi New Mexico đã đưa ra một quyết định tương tự.
Tại khu vực Bắc Dakota, nơi diễn ra cuộc cách mạng dầu đá phiến ở Mỹ trong nhiều năm trước, đang chứng kiến sự chững lại nhanh chóng. Các nhà sản xuất dầu đã đóng hơn 6.000 giếng dầu, cắt giảm sản lượng khoảng 405.000 thùng mỗi ngày, tương đương 30% sản lượng dầu đá phiến toàn nước Mỹ.
Một mỏ khai thác của Whiting tại khu vực Bắc Dakota. Ảnh: Bloomberg.
Việc cắt giảm sản lượng không chỉ giới hạn tại Mỹ. Từ Chad, một quốc gia nghèo và không giáp biển ở Châu Phi, cho đến Việt Nam và Brazil, các nhà sản xuất đang giảm hoặc lên kế hoạch thực hiện điều tương tự.
“Tôi không muốn làm trầm trọng thêm vấn đề, nhưng thực tế, rủi ro đóng cửa đang hiện hữu”, Mitch Flegg, người đứng đầu công ty dầu mỏ Serica Energy, cho biết. “Ở một số nơi trên thế giới, rủi ro này đã trở thành sự thực”.
Trong các cuộc họp hội đồng khẩn cấp vào tuần trước, các công ty dầu khí đã thảo luận về những dự báo tồi tệ nhất. Đối với những công ty lớn như Exxon Mobil Corp và BP, việc duy trì hoạt động hiện nay là một thách thức không nhỏ.
Saudi Arabia, Nga và phần còn lại của OPEC sẽ bắt đầu giảm sản lượng từ đầu tháng tới, cắt giảm hơn 20%, tương đương 9,7 triệu thùng mỗi ngày. Saudi Aramco cho biết sẽ hạ sản lượng để đảm bảo mục tiêu này. Trong khi đó, các công ty dầu khí của Nga cũng tuyên bố giảm xuất khẩu dầu thô Urals trong tháng 5 xuống mức thấp nhất trong 10 năm.
Mặc dù vậy, giới phân tích cho rằng nỗ lực này có thể là không đủ. Mỗi tuần, 50 triệu thùng dầu được đưa đến các kho dự trữ, đủ để cung cấp cho Đức, Pháp, Italy, Tây Ban Nha và Anh cộng lại. Với tốc độ đó, thế giới sẽ hết nơi chứa dầu vào tháng 6. Khi những kho chứa trên đất liền đã ngập dầu, các nhà sản xuất chuyển nơi chứa sang các tàu chở, nhưng điều này có thể chỉ là tạm thời. Lực lượng bảo vệ bờ biển Mỹ ngày thứ sáu cho biết, số tàu chở dầu neo ngoài khơi California nhiều đến nỗi họ phải theo dõi tình hình.
Trước khi cuộc khủng hoảng xảy ra, thế giới tiêu thụ khoảng 100 triệu thùng dầu mỗi ngày. Nhưng hiện nay, con số này chỉ còn khoảng 65-70 triệu thùng. Vì vậy, trong trường hợp xấu nhất, khoảng một phần ba sản lượng toàn cầu phải đóng cửa.
Thực tế có thể sẽ ít nghiêm trọng hơn vì việc lưu trữ sẽ tiếp tục thu hẹp khoảng cách giữa cung và cầu. Ngoài ra, các thương nhân cho biết mức tiêu thụ có thể đã chạm đáy, và nhu cầu sẽ bắt đầu phục hồi chậm trở lại.
Dù vậy, trước khi có sự phục hồi, việc dừng hoạt động các nhà máy lọc dầu có thể vẫn diễn ra trên diện rộng.
Marathon Chemicals, một trong những nhà tinh chế lớn nhất tại Mỹ, tuyên bố sẽ ngừng sản xuất tại một nhà máy gần San Francisco. Royal Dutch Shell đã dừng một số đơn vị trong ba nhà máy lọc dầu tại Alabama và Louisiana. Trên khắp châu Âu và châu Á, nhiều nhà máy lọc dầu đang hoạt động với một nửa công suất. Các nhà máy lọc dầu tại Mỹ xử lý khoảng 12,45 triệu thùng mỗi ngày trong tuần trước, mức thấp nhất trong ít nhất 30 năm, ngoại trừ các đợt đóng cửa liên quan đến thiên tai.
Steve Sawyer, giám đốc hoạt động sản xuất của Fact Global Energy, cho biết các nhà máy lọc dầu toàn cầu có thể giảm 25% tổng công suất trong tháng 5. “Không ai có thể né được viên đạn này”, Sawyer nói.
Minh Sơn
PV Drilling ký quỹ hơn 15 triệu USD để bảo lãnh mở L/C
Tổng công ty cổ phần khoan và dịch vụ khoan dầu khí (mã PVD, sàn HoSE) cho biết Hội đồng quản trị công ty này đã phê duyệt việc ký quỹ bảo lãnh mở L/C (thư tín dụng).
PVDrilling hoạt động trong lĩnh vực khoan dịch vụ dầu khí
Theo đó, việc ký quỹ được sử dụng bằng nguồn tiền trên tài khoản của công ty này tại ngân hàng, số tiền là 15,2 triệu USD.
Mục tiêu ký quỹ để bảo lãnh L/C theo quy định tại hợp đồng ký với National Oilwell Varco.L.P (NOV) - Dự án DES.
Thời hạn L/C từ ngày ký quỹ đến hết thời hạn của L/C theo quy định của hợp đồng, dự kiến khoảng 1 năm. Số tiền ký quỹ sẽ được giải tỏa theo tiến độ thanh toán L/C.
Hội đồng quản trị Công ty cũng chấp thuận chủ trương việc PV Drilling cho PVD Tech vay từ số tiền ký quỹ nêu trên để thanh toán cho L/C trong trường hợp việc giải ngân từ hợp đồng tín dụng dài hạn cho Dự án DES vị chậm tiến độ thanh toán L/C.
PVD Tech là một trong những đơn vị thành viên của PVDrilling, công ty này hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ kỹ thuật giếng khoan; dịch vụ thiết kế, chế tạo và sản xuất thiết bị kỹ thuật cao; Dịch vụ thương mại, bảo dưỡng và logistic. Hiện nay, PVDrilling đang nắm giữ 97% vốn trong tổng số vốn 200 tỷ của PVD Tech.
Ngoài PVD Tech, PV Drilling còn có 6 công ty thành viên khác đều do PV Driling nắm 100% vốn. Trong đó PV Drilling Division hoạt động quản lý vận hành đội ngũ giàn khoan sở hữu (PV DRILLING I, II, III, VI & 11) và các giàn khoan thuê ngoài; PV Invest cung cấp chuyên gia trình độ cao và các dịch vụ kỹ thuật thiết bị dầu khí trên giàn khoan và giàn khai thác.
Một số công ty con khác còn có PV Offshore hoạt động kiểm định, bảo dưỡng, chế tạo thiết bị khoan, cung ứng nhân lực khoan, ứng cứu sự cố tràn dầu; PV Logging hoạt động đo khí, kéo thả thiết bị trong lòng giếng, đo Karota khai thác, bắn vỉa dầu khí, thử vỉa dầu khí, cung cấp chuyên gia địa chất, bảo quản và vận chuyển thuốc nổ công nghiệp; PVD Well Services cho thuê thiết bị khoan, kéo thả ống chống, khoan kiểm soát áp suất (MPD).
Một công ty con nữa là PVD Deepwater hoạt động cung ứng giàn khoan biển nước sâu, các dịch vụ hỗ trợ khai thác dầu thô và khí tự nhiên. Đây cũng là công ty con có quy mô vốn lớn nhất với 764 tỷ đồng.
PVDrilling có tổng tài sản tại ngày 31/12/2019 là 20.891,7 tỷ đồng, trong đó tài sản cố định có giá trị lên tới 13.935,7 tỷ đồng.
Trong số các tài sản cố định của của PVDrilling, từ tháng 11/2016 đến ngày lập báo cáo tài chính năm 2019, giàn khoan PV Drilling V ngưng hoạt động vì đang chờ việc.
Giá trị còn lại của giàn khoan PV Drilling V tại ngày 31/12/2019 là 2.813.090.939.700 đồng (tại ngày 31/12/2018: 2.813.090.939.700 đồng).
Tháng 9/2019, PVDrilling đã ký kết Hợp đồng cung cấp giàn khoan PV Drilling V với Brunei Shell Petroleum Company Sdn Bhd (BSP).
Hợp đồng đã ký có thời hạn 6 năm, với 2 lần tùy chọn gia hạn với mỗi lần là 2 năm, bắt đầu từ ngày 1/4/2021 để phục vụ cho chương trình khoan của BSP tại Brunei.
Nguyên giá của tài sản cố định hữu hình bao gồm các tài sản cố định hữu hình đã khấu hao hết nhưng vẫn còn sử dụng tại ngày 31/12/2019 với giá trị là 1.151.798.871.181 đồng (tại ngày 31/12/2018: 1.018.579.064.226 đồng).
Khấu hao tài sản cố định hữu hình trong năm bao gồm 10.683.625.690 đồng là hao mòn tài sản cố định được đầu tư, mua sắm bằng Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ sử dụng cho mục đích nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ (năm 2018: 13.978.739.037 đồng).
Chí Tín
Khó khăn "bủa vây" mọi lĩnh vực hoạt động của PVN, doanh thu mất hàng tỷ USD, xem xét nhập khẩu dầu giá thấp Tìm kiếm, khai thác dầu khí đến sản xuất kinh doanh xăng dầu, tiêu thụ phân ure, NPK, dịch vụ kỹ thuật dầu khí... của PVN đều đang bị ảnh hưởng. Theo TGĐ PVN đây là "một trong những thời điểm khó khăn nhất". Khai thác dầu khí tại mỏ Cá Tầm Covid-19, giá dầu sụt giảm, hạn mặn tác động tiêu cực...