Chưa thể thả nổi tỷ giá
Với chính sách điều hành tỷ giá của NHNN cùng những thành quả đạt được trong điều hành kinh tế vĩ mô, dù trong thời gian tới, tình hình kinh tế trong nước và thế giới dự báo có những biến động khó lường thì tỷ giá vẫn có nhiều cơ hội để ổn định.
Đây là nhận định của TS. Nguyễn Đức Độ, Phó Viện trưởng Viện Tài chính (Học viện Tài chính) khi chia sẻ với phóng viên.
Theo ông, tình hình tỷ giá trong thời gian qua đã có những thay đổi như thế nào?
Tại Việt Nam, tỷ giá phụ thuộc vào điều kiện kinh tế bên ngoài, cán cân thương mại và chính sách điều hành của NHNN. Chính sách tỷ giá trung tâm trong thời gian qua đã đi đúng được mục tiêu ổn định tỷ giá và chống “đô la hóa”. Tuy nhiên, sự ổn định này có được một phần còn nhờ sự ổn định của nền kinh tế, các đồng ngoại tệ khác trong rổ tham chiếu không có nhiều biến động, cán cân thương mại xuất siêu, lạm phát thấp, người dân bán USD nhiều hơn… nên tỷ giá tại Việt Nam không có nhiều sự xáo trộn.
Hơn nữa, dù với chính sách nào thì NHNN đều tuyên bố sẽ cố gắng giữ ổn định tỷ giá, bởi ổn định tỷ giá mới ổn định được lãi suất và tỷ giá còn liên quan đến nợ công. Tỷ giá ngoại tệ mất giá nhiều thì gành nặng nợ công càng tăng lên và ảnh hưởng mạnh đến hoạt động xuất nhập khẩu.
Đặc biệt, tỷ giá trung tâm không thể ổn định nếu các đồng tiền khác biến động. Trong thời gian qua, với sự kiện người dân Anh ủng hộ rời khỏi Liên minh châu Âu (EU), tỷ giá đã có sự biến động nhưng không nhiều do trong các đồng tiền tham chiếu cho tỷ giá trung tâm, có đồng lên giá, có đồng xuống giá nên không gây xáo trộn mạnh. Hơn nữa, trước sự kiện này, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ ( FED) khó có khả năng tăng lãi suất USD nên tỷ giá tại Việt Nam càng đứng vững.
Có ý kiến cho rằng, NHNN nên thả nổi tỷ giá, để thị trường tự quyết định, ông có đồng tình với quan điểm này?
Theo tôi, với bối cảnh kinh tế hiện tại, NHNN chưa thể thả nổi tỷ giá bởi có thể gây nên những tác hại khôn lường đến nền kinh tế. Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế mở, nếu thả nổi hoàn toàn, tỷ giá có thể bị thị trường đẩy lên 5%, thậm chí 10% thì hoạt động xuất nhập khẩu sẽ gặp nguy khốn.
Một số nước trên thế giới có trình độ phát triển hơn Việt Nam như Singapore vẫn chưa thể thả nổi tỷ giá mà vẫn phải có sự kiểm soát. Còn tại các quốc gia thuộc EU hay Nhật Bản, tỷ giá được thả nổi vì họ có giao dịch lên đến hàng nghìn tỷ USD một ngày nên có thể để thị trường tự kiểm soát.
Vậy ông có ý kiến như thế nào về giải pháp nới lỏng chính sách siết vay ngoại tệ, nâng trần lãi suất huy động USD để ổn định tỷ giá?
Mọi ý kiến về sự thay đổi chính sách điều hành đều cần đến những tính toán thận trọng và hợp lý, dựa trên việc đánh giá những tác động tích cực hay tiêu cực đến nền kinh tế.
Video đang HOT
Về việc NHNN siết vay ngoại tệ, tôi cho rằng NHNN không nên thay đổi vì nếu cho vay ngoại tệ nhiều sẽ dẫn đến rủi ro tỷ giá sau này. Hiện tín dụng ngoại tệ chỉ chiếm 10% tổng tín dụng, nên NHNN muốn chú trọng việc đưa lượng USD hiện có vào lưu thông, chứ không muốn lượng USD mà người dân và doanh nghiệp găm giữ ngày càng gia tăng.
Bên cạnh đó, việc nâng trần lãi suất huy động USD hiện đang là 0% sẽ khiến thị trường kỳ vọng và lập tức phục hồi tâm lý găm giữ ngoại tệ, điều này sẽ khiến tỷ giá biến động. Hơn nữa, nhờ lãi suất huy động USD chỉ còn 0% nên sẽ giúp ngân hàng có thêm nguồn vốn, giúp lãi suất cho vay bằng VND không bị tăng lên.
Nếu NHNN kiên trì với chính sách trần lãi suất tiền gửi bằng USD ở mức 0%, đồng thời đảm bảo sự ổn định của tỷ giá VND/USD, người dân sẽ không còn hứng thú với việc găm giữ USD mà chuyển sang VND nhiều hơn. Từ đó, người dân sẽ chú trọng gửi tiết kiệm bằng VND với kỳ hạn dài, giúp các ngân hàng thương mại có nguồn vốn để giảm lãi suất huy động và cho vay. Khi lãi suất cho vay bằng VND được giảm về mức hợp lý thì nhu cầu về tín dụng VND sẽ tăng và làm giảm nhu cầu vay bằng ngoại tệ.
Biểu đồ “đường đi” tỷ giá trung tâm trong 6 tháng đầu năm 2016 Ảnh: Công ty CP Chứng khoán Bảo Việt
Từ đầu năm đến nay, NHNN đã mua vào gần 8 tỷ USD, dự trữ ngoại hối đã đạt mức cao kỷ lục 38 tỷ USD (chưa bao gồm vàng) và dự báo sẽ tiếp tục tăng trong 6 tháng còn lại. Theo ông, điều này có ảnh hưởng như thế nào đến việc điều hành tỷ giá của NHNN?
Tăng dự trữ ngoại hối không phải là giải pháp bảo đảm cho sự ổn định tỷ giá. Thậm chí, một số trường hợp tăng dự trữ không hợp lý còn gây hại cho nền kinh tế. Việc tăng dự trữ ngoại hối chỉ nên thực hiện khi thị trường dư thừa USD, còn khi thị trường cần USD mà NHNN phá giá, bắt thị trường mua USD giá cao hơn thì thị trường có thể phản ứng bằng cách găm giữ USD, khiến tỷ giá biến động.
Vì thế, việc ổn định tỷ giá cần quan tâm đến việc NHNN sẵn sàng bán ra bao nhiêu USD để ổn định thị trường. Hơn nữa, nếu lượng USD trong nền kinh tế là cố định, thì khi NHNN tăng dự trữ bao nhiêu sẽ khiến lượng USD trên thị trường bị sụt giảm đi bấy nhiêu. Không những thế, 1 USD trên thị trường có thể quay vòng, còn nếu nằm ở NHNN thì 1 USD vẫn chỉ là 1 USD.
Vấn đề tỷ giá chỉ đáng lo khi USD bị bán ra khỏi Việt Nam và không quay trở lại. Còn với bối cảnh kinh tế hiện nay, tuy “ sức khỏe” còn yếu nhưng cán cân thương mại và cán cân thanh toán vẫn thặng dư, dự trữ ngoại hối tăng cao, lạm phát thấp nhưng lãi suất cao thì vấn đề này hầu như chưa có gì ảnh hưởng.
Ông nhận định như thế nào về tình hình tỷ giá 6 tháng cuối năm?
Tôi vẫn giữ nguyên quan điểm về sự ổn định của tỷ giá trong cả năm 2016 như trong bài phỏng vấn trên Báo Hải quan vào cuối năm 2015. Mặc dù có thể nền kinh tế trong nước và thế giới trong những tháng cuối năm 2016 có nhiều biến động, nhất là sau sự kiện Brexit, nhưng NHNN vẫn sẽ có biện pháp để đảm bảo sự ổn định của ngoại tệ, đặc biệt là USD.
Hơn nữa, những tác động bên ngoài như trên còn mang nhiều yếu tố tâm lý, các đồng tiền ngoại tệ khác mất giá nhưng với việc tính tỷ giá trung tâm theo 8 đồng ngoại tệ thì vẫn có sự cân bằng, hỗ trợ nhau để ổn định.
Bên cạnh đó, nhiều ý kiến cho rằng việc nới lỏng tiền tệ và chính sách hạ lãi suất của NHNN sẽ ảnh hưởng đến tỷ giá, nhưng hiện việc hạ lãi suất đang thực hiện theo từng bước nhỏ để chờ phản ứng của thị trường. Như vậy, mặc dù lãi suất huy động vẫn ở mức cao nhưng kỳ vọng giá USD tăng không nhiều nên nếu NHNN tiếp tục cam kết bán USD kỳ hạn để ổn định tỷ giá, việc rút VND với quy mô lớn để mua USD sẽ không xảy ra nên tỷ giá ngoại tệ trong thời gian tới có thể tăng nhưng khó có thể tăng giá quá cao tạo thành cơn sốt.
Xin cảm ơn ông!
PGS.TS. Ngô Trí Long, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả, Bộ Tài chính: Tỷ giá ổn định tạo đà cho phát triển kinh tế Sự kiện Brexit sẽ có tác động lớn nhất đến hoạt động thương mại và đầu tư tại Việt Nam, đây lại là 2 hoạt động liên quan trực tiếp đến vấn đề tỷ giá, hối đoái. Do đó, NHNN cần phải có kế hoạch để điều chỉnh và điều hành tỷ giá cho phù hợp. Bởi nếu tỷ giá tăng cao thì người dân sẽ quay trở lại với việc dự trữ ngoại tệ nên mục tiêu chống “đô la hóa”, “vàng hóa” sẽ khó thực hiện hơn. Tuy nhiên, hiện mặt bằng kinh tế trong nước đang có nhiều chỉ số thuận lợi để NHNN “ghìm cương” tỷ giá, do đó, với chính sách điều hành phù hợp, tỷ giá sẽ khó có những biến động lớn trong thời gian tới. Việt Nam là một quốc gia đang có đà hội nhập sâu rộng nên những biến động về tỷ giá sẽ có những ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế nói chung, đặc biệt là hoạt động giao thương xuất nhập khẩu. Do đó, một chính sách tỷ giá ổn định sẽ góp phần thúc đẩy môi trường kinh doanh, tài chính phát triển mạnh hơn. Chuyên gia kinh tế, TS. Nguyễn Trí Hiếu: Tăng xuất khẩu để giảm áp lực tỷ giá Trong thời gian tới, tỷ giá sẽ chịu áp lực lớn từ việc phá giá của một số đồng ngoại tệ do sức ảnh hưởng của sự kiện Brexit. Bên cạnh đó, những yếu tố vĩ mô như lạm phát có dấu hiệu tăng trở lại, nhu cầu ngoại tệ của doanh nghiệp những tháng cuối năm tăng cao… cũng tạo áp lực lên tỷ giá. Biện pháp phá giá VND chỉ là giải pháp tình thế trước mắt, nếu để lâu dài sẽ có ảnh hưởng không tốt tới nền kinh tế nói chung. Hơn nữa, hiện vẫn chưa thấy có dấu hiệu nào từ NHNN cho động thái này. Do vậy, bên cạnh việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, các doanh nghiệp cần nhanh chóng tìm cách mở rộng thị trường, tìm kiếm những thị trường thay thế ít chịu ảnh hưởng từ Brexit, nâng cao chất lượng sản phẩm… để tăng cường xuất khẩu, thu về ngoại tệ nhằm cân đối thị trường tài chính trong nước. Chi Mai (ghi)
Theo Bao Hai quan
Khả năng giảm lãi suất tiền đồng: Đừng kỳ vọng quá nhiều!
Dù có nhiều yếu tố hỗ trợ, khả năng giảm của lãi suất cho vay tiền đồng đang gặp phải nhiều áp lực từ rủi ro tỷ giá hiện hữu trở lại và lạm phát vẫn cao hơn đáng kể so với năm 2015.
Lãi suất cho vay được nhiều ngân hàng điều chỉnh giảm trong thời gian gần đây.
Sự dư thừa thanh khoản của hệ thống ngân hàng trong thời gian qua phần nào là yếu tố giúp giải tỏa áp lực tăng đối với lãi suất huy động trên thị trường và một số ngân hàng như ACB, Sacombank hay Eximbank thời gian gần đây thậm chí còn điều chỉnh giảm khoảng 0,1% lãi suất huy động kỳ hạn ngắn dưới 6 tháng.
Một số ngân hàng lớn với tiềm lực nguồn vốn dồi dào như Vietcombank, Vietinbank và BIDV mới đây cũng thông báo rộng rãi việc giảm lãi suất và áp trần lãi suất cho vay tiền đồng 10%/năm, nhen nhóm kỳ vọng đối với số đông khách hàng doanh nghiệp.
Song dường như, những động thái trên đây chưa hẳn là tín hiệu rõ rệt về khả năng mặt bằng lãi suất cho vay trên thị trường có thể giảm trên bình diện rộng.
Cho đến cuối tháng 5 vừa qua, ngoài những động thái lẻ tẻ từ phía các "đại gia" ngân hàng, với tỉ giá tương đối ổn định và thanh khoản hệ thống dồi dào, mặt bằng lãi suất huy động cũng như cho vay dường như không có nhiều thay đổi so với giai đoạn trước.
Và cho đến tận thời điểm này của tháng 6, thống kê của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho thấy, mặt bằng lãi suất cho vay phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 6-7%/năm đối với ngắn hạn và 9-10%/năm đối với trung và dài hạn. Trong khi lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường vẫn ở mức 6,8-9%/năm đối với ngắn hạn và 9,3-11%/năm đối với trung và dài hạn.
Lãi suất giảm sẽ làm giảm áp lực vay nợ lên hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp. Ảnh: T.L
Đặt tình huống về khả năng giảm của lãi suất tiền đồng ở thời điểm này có thể nhận thấy, những "rào cản" lớn nhất sẽ đến từ rủi ro tỷ giá hiện hữu có thể trở lại và diễn biến, kỳ vọng lạm phát 2016 dù vẫn ở mức tương đối thấp nhưng cao hơn đáng kể so với 2015.
Bên cạnh đó, theo Chứng khoán Vietcombank (VCBS), áp lực tăng quy mô tài sản, cân đối nguồn vốn và đảm bảo các tỷ lệ an toàn của các ngân hàng thương mại (NHTM), đặc biệt sau khi Thông tư 06 của NHNN chính thức được ban hành với lộ trình cụ thể, cũng là một trở ngại không nhỏ.
Trước đó, thông tin được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc công bố trong phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5 cho biết trong vòng 4 tháng qua, NHNN mua vào khoảng 8 tỷ USD (tương đương khoảng 178.000 tỷ đồng) giúp cải thiện dự trữ ngoại hối. Việc mua vào một lượng lớn ngoại tệ như vậy đồng nghĩa với việc NHNN phải bơm một lượng lớn tiền Đồng tương ứng ra thị trường.
Tình trạng dư thừa thanh khoản của hệ thống ngân hàng được cho là yếu tố thúc đẩy nhu cầu giảm lãi suất tiền đồng. Tuy nhiên theo đánh giá của BVSC, điều này có thể chỉ mang tính tạm thời và ngắn hạn.
Thực tế với rủi ro lạm phát đang tăng nhanh trở lại (cuối tháng 5 đạt mức 2,28% trong khi cùng kỳ năm 2015 mới đạt 0,95% theo năm), NHNN sẽ phải rất thận trọng trong việc điều tiết cung tiền. Trên thực tế, trong hai tuần đầu tháng 6, NHNN phát hành trở lại tín phiếu ngân hàng kỳ hạn 7 ngày và 14 ngày với giá trị khoảng 40.000 tỷ đồng. Động thái này có thể nhằm mục đích hút bớt lượng tiền dư thừa trong hệ thống về.
Nhìn vào diễn biến lãi suất trên thị trường liên ngân hàng trong tháng 5 xuống mức thấp kỉ lục trong vòng 3 năm qua (lãi suất ngày 23/5 chỉ còn 0,82%, lãi suất 1 tháng ở mức 3%), Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia cũng nhìn nhận nguyên nhân hệ thống ngân hàng có thanh khoản khá tốt trong thời gian qua là do nguồn cung ổn định, huy động tăng cao trong khi tín dụng tăng ở mức tương đương so với cùng kỳ.
Dẫu vậy việc giảm lãi suất cho vay được một số ngân hàng lớn tiến hành trong thời gian qua chưa phải là tín hiệu đủ mạnh cho thấy mặt bằng lãi suất cho vay có thể thay đổi ngay dù thị trường đang kỳ vọng về khả năng giảm nhẹ lãi suất cho vay trong thời gian tới.
"Áp lực lên mặt bằng lãi suất trong thời gian tới vẫn đáng kể do nhu cầu tín dụng tăng cao vào các quý cuối năm; kỳ vọng lạm phát và áp lực tỷ giá lớn hơn vào cuối năm sẽ gây áp lực đáng kể lên lãi suất" - Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia chung nhân định.
Ngược lại, "với cơ chế điều hành tỷ giá mới theo hướng linh hoạt hơn, chúng tôi cho rằng NHNN còn nhiều dư địa chính sách để ổn định mặt bằng lãi suất. Như vậy, chúng tôi kỳ vọng mặt bằng lãi suất trong thời gian tới sẽ tiếp tục duy trì tương đối ổn định quanh mức hiện tại, trần lãi suất huy động 5,5% đối với các kỳ hạn ngắn nhiều khả năng sẽ được giữ vững" nhóm phân tích của Chứng khoán Vietcombank đánh giá.
Theo Lao đông
Tiền tệ ổn định hấp dẫn dòng vốn đầu tư Giữa lo lắng về chiến tranh tiền tệ do bất ổn tài chính toàn cầu đang diễn ra thì việc Việt Nam ổn định tiền tệ, tăng giá trị tiền đồng được cho là nhân tố giúp thu hút đầu tư nước ngoài. Xem bài khác trên Vef.vn Bà Natasha Ansell, Tổng giám đốc Citi Bank Việt Nam cho rằng: "Việt Nam đã...