Chưa siết room ngoại đối với các trung gian thanh toán
Ngân hàng Nhà nước ( NHNN) dự kiến không đưa tỷ lệ giới hạn sở hữu nhà đầu tư nước ngoài là 49% vào Dự thảo Nghị định số 101/2012/NĐ-CP quy định về thanh toán không dùng tiền mặt. Điều này có nghĩa, cơ quan quản lý chưa vội siết room ngoại trong lĩnh vực này.
Cơ hội thu hút vốn ngoại sẽ rộng mở hơn đối với các tổ chức trung gian thanh toán khi không bị hạn chế tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư nước ngoài.
Không hạn chế room để tăng sức hút vốn ngoại
Trước đó, Dự thảo Nghị định thanh toán không dùng tiền mặt thay thế Nghị định 101/2012/NĐ-CP (đã sửa đổi, bổ sung) đã nhận được sự quan tâm của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, cũng như cộng đồng Fintech.
NHNN đánh giá, trước sự phát triển của công nghệ và xu hướng hội nhập toàn cầu của nền kinh tế, để đáp ứng yêu cầu thực tiễn và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong hoạt động thanh toán, đòi hỏi các quy định về thanh toán không dùng tiền mặt hiện hành cần tiếp tục được bổ sung, chỉnh sửa, hoàn thiện.
Thực hiện theo trình tự, thủ tục ban hành văn bản pháp luật, sau khi các chính sách dự kiến được đề cập trong bộ Hồ sơ đề nghị xây dựng Nghị định thay thế Nghị định 101 được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, NHNN đã chủ động xây dựng và gửi xin ý kiến rộng rãi đối với các nội dung của Dự thảo.
Theo đó, NHNN đã nhận được nhiều ý kiến đóng góp của hầu hết các bộ, ngành có liên quan, các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, tổ chức trung gian thanh toán, các hiệp hội và tổ chức khác.
Trên cơ sở đó, NHNN đang tiến hành tổng hợp, nghiên cứu, hoàn thiện Dự thảo để trình Chính phủ trong tháng 6/2020.
Một trong những nội dung được quan tâm tại Dự thảo là quy định tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài ở mức 49% chỉ áp dụng cho các hoạt động trung gian thanh toán (không phải tất cả các công ty Fintech).
Tuy nhiên, bên cạnh những ý kiến đồng tình, cũng có ý kiến cho rằng, trung gian thanh toán là loại hình dịch vụ mới dựa trên nền tảng ứng dụng thành tựu của công nghệ nên vốn ngoại đóng vai trò quan trọng, nếu hạn chế tỷ lệ sở hữu sẽ khó hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này nói riêng, Fintech nói chung.
Hiện nay, một số tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán quy mô lớn đã được cấp phép và có tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài vượt mức 49%, chẳng hạn 1Pay bán 90% cổ phần cho TrueMoney – một doanh nghiệp Thái Lan có cổ đông lớn là Tập đoàn Alibaba (Trung Quốc); VNPT Epay bán 65% vốn cho 2 nhà đầu tư Hàn Quốc là Global Payment Service (64,99%) và UTC Investment Co., Ltd (0,83%); MOL Accessportal mua 50% vốn của Ngân Lượng; NTT Data mua 64% cổ phần Payoo…
Do đó, việc quy định giới hạn tỷ lệ vốn góp của khối ngoại có thể ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp này.
Video đang HOT
Đánh giá tác động của việc giới hạn room ngoại trong hoạt động trung gian thanh toán, ông Ngô Trung Lĩnh, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Dịch vụ trực tuyến Cộng đồng Việt (VietUnion) cho rằng, Việt Nam đang là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư khu vực Đông Nam Á.
Với lĩnh vực Fintech, Việt Nam lâu nay không áp dụng giới hạn, nên nếu hạn chế room ngoại ở mức 49% như Dự thảo sẽ khiến việc việc tiếp nhận nguồn vốn, công nghệ từ thế giới bị hạn chế, từ đó làm chậm quá trình phát triển của thị trường trung gian thanh toán…
Lãnh đạo nhiều tổ chức trung gian thanh toán chia sẻ, lĩnh vực thanh toán luôn đòi hỏi đầu tư và đổi mới về công nghệ.
Do đó, các công ty trung gian thanh toán rất khát vốn, nhất là nguồn vốn ngoại với lợi thế chi phí vốn rẻ và dồi dào.
Bởi chỉ khi có nhiều vốn, các công ty trung gian thanh toán mới có thể đáp ứng được xu hướng phát triển của thị trường và nhu cầu thanh toán tiện lợi của khách hàng.
Về phía NHNN, dựa trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu đầy đủ, toàn diện các vấn đề, các ý kiến đóng góp, cũng như tình hình thực tiễn, đại diện cơ quan này cho biết, sẽ chưa đưa tỷ lệ giới hạn (49%) vào Dự thảo.
Tính đến 14/11/2019, cả nước có 32 tổ chức không phải là ngân hàng được NHNN cấp giấy phép cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán.
Thực tế, hàng loạt ví điện tử đã bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài có tiềm lực ngay khi được “ngỏ lời”.
Với nguồn lực tài chính dồi dào và sự hỗ trợ từ đối tác là các định chế tài chính lớn như Warburg Pincus, Goldman Sachs, Standard Chartered Private Equity (SCPE), đại diện MoMo cho biết, trong thời gian tới, Công ty sẽ tiếp tục tăng cường đầu tư công nghệ, mở rộng mạng lưới khách hàng và đối tác, tăng điểm chấp nhận thanh toán và đầu tư vào nguồn nhân lực để tạo hệ sinh thái thanh toán hiện đại, đáp ứng đa dạng nhu cầu của người dùng.
“MoMo hiện đang hợp tác với hơn 10.000 đối tác trong nhiều lĩnh lực như tài chính tiêu dùng, bảo hiểm, thanh toán dịch vụ tiện ích, giải trí… Vì thế, chiến lược phát triển của MoMo nói riêng, các Fintech nói chung, là tiếp tục thu hút vốn đầu tư”, đại diện MoMo nói.
Cần khung pháp lý rõ ràng để hạn chế rủi ro
Theo thống kê của NHNN, số người có tài khoản ngân hàng hiện nay là 45,8 triệu người, chiếm 63% dân số.
Bên cạnh các công ty Fintech, các ngân hàng thương mại cũng tích cực đẩy mạnh hoạt động thanh toán trên nền tảng công nghệ mới khi đang có 24 ngân hàng cung cấp dịch vụ thanh toán QR code với 50.000 điểm chấp nhận thanh toán.
Ngoài ra, có 76 tổ chức triển khai dịch vụ thanh toán qua Internet và 44 tổ chức triển khai dịch vụ thanh toán qua di động.
“Xu hướng phát triển hợp tác và cạnh tranh trong lĩnh vực thanh toán của các ngân hàng ngày càng trở nên mạnh mẽ, gay gắt hơn, đòi hỏi ngân hàng phải có sự nhận thức sâu sắc về vấn đề này, nếu không muốn bị tụt hậu và mất thị phần, mất khách hàng trong tay đối thủ cũng là các đối tác như công ty Fintech, công ty cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán”, ông Nguyễn Văn Nguyện, đại diện NHNN Chi nhánh TP.HCM nhìn nhận.
Liên quan tới khung khổ pháp lý, ông Neil Van Heerden, Giám đốc Kinh doanh thương mại và quốc tế của TrueMoney cho biết, Fintech đã thành công ở nhiều thị trường trên thế giới, cũng như trong khu vực.
Nhưng tại Việt Nam, Fitech mới đang ở giai đoạn đầu phát triển nên rất cần thiết phải có khung pháp lý cụ thể, rõ ràng.
“Việt Nam đang hướng đến một xã hội phi tiền mặt thì không lý do gì không phát triển Fintech”, ông Neil Van Heerden nhấn mạnh.
Đồng quan điểm, TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia tài chính – ngân hàng cũng cho rằng, với Fintech, Việt Nam cần sớm hoàn thiện khung pháp lý cho lĩnh vực này, cũng như việc đẩy mạnh thanh toán không tiền mặt.
TS. Trần Hùng Sơn – Viện Nghiên cứu phát triển công nghệ ngân hàng (Đại học Quốc gia TP.HCM), giảng viên Khoa tài chính – Ngân hàng Trường Đại học Kinh tế – Luật nhận định, với sự phát triển nhanh chóng của các ứng dụng công nghệ tiến tiến như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ chuỗi khối (Blockchain), dữ liệu lớn (Big Data) hay điện toán đám mây, Fintech đang thay đổi nhanh chóng hệ sinh thái của ngành tài chính và đổi mới tài chính hiện là xu hướng không thể đảo ngược.
Tuy nhiên, các mô hình ứng dụng kinh doanh của Fintech rất đa dạng và ngày càng phức tạp hơn. Cùng với nâng cao hiệu quả hoạt động, nhưng mô hình này cũng mang lại bất trắc và rủi ro.
Theo đó, các vấn đề như rủi ro tài chính hay những quy định không phù hợp đã dần xuất hiện. Việc sử dụng Fintech lúc này không những không giúp giảm thiểu rủi ro vốn có trong hệ thống tài chính, mà còn có thể khuyếch đại hoặc tạo ra các hình thức rủi ro tài chính mới.
Thực tế cho thấy, số lượng doanh nghiệp Fintech tại Việt Nam đã tăng từ hơn 40 doanh nghiệp vào cuối năm 2016, lên khoảng 150 doanh nghiệp như hiện nay và hoạt động trong nhiều mảng khác nhau như thanh toán, gọi vốn cộng đồng, Blockchain, quản lý tài chính cá nhân, quản lý POS/mPOS, quản lý dữ liệu, cho vay, so sánh thông tin…
Mới đây, trước những hoạt động biến tướng và vi phạm pháp luật trong hoạt động cho vay của một số doanh nghiệp kinh doanh cho vay ngang hàng, NHNN đã khuyến cáo người dân và các tổ chức tín dụng nên thận trọng khi tham gia mô hình này.
“Trước thực tế này, đòi hỏi Việt Nam nhanh chóng xây dựng khuôn khổ pháp lý phù hợp cho hoạt động của các Fintech nhằm bảo vệ nhà đầu tư, tính toàn vẹn của thị trường và đảm bảo ổn định tài chính”, TS. Sơn nói.
Theo Tinnhanhchungkhoan.vn
Người dân mất đến 30 phút để thanh toán viện phí
Thanh toán điện tử đang gặp nhiều rào cản phát triển, từ nhận thức đến sự phát triển đồng bộ hạ tầng công nghệ và sự đa dạng của dịch vụ được cung cấp.
Chính phủ đặt mục tiêu đến năm 2020 tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt phải chiếm hơn 30% trên tổng phương tiện thanh toán tại Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn một khoảng cách rất xa để đạt được mục tiêu này.
Theo thống kê của Bộ Y tế, hàng năm Bộ này thu khoảng 100.000 tỉ viện phí và phí bảo hiểm y tế. Trong đó, dù tiền thanh toán của Bảo hiểm xã hội được thực hiện qua ngân hàng nhưng lượng tiền mặt trả viện phí vẫn rất lớn.
Ông Trần Quý Tường, Cục trưởng cục Công nghệ thông tin của Bộ Y tế nhìn nhận: "Đến nay, việc thanh toán ở bệnh viện chủ yếu bằng tiền mặt, có bệnh viện đã sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt nhưng hiệu quả chưa cao. Khi chúng tôi quan sát, quy trình khám chữa bệnh gồm 6 bước, thời gian một người sử dụng để đóng tiền viện phí trung bình là 30 phút. Trong thời gian vừa qua một số ngân hàng đã làm việc với bệnh viện và cho rằng, các bệnh viện đủ nền tảng công nghệ để thanh toán qua ngân hàng".
Đủ nền tảng công nghệ để thanh toán qua ngân hàng nhưng chắc chắn sẽ còn khoảng thời gian không ngắn để đầu tư và triển khai phổ cập vào thực tế và mang đến hiệu quả thực sự. Hệ thống hạ tầng công nghệ chưa có sự phát triển đồng bộ giữa thành thị và nông thôn cũng là một trong những hạn chế đối với ứng dụng thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta.
Phương thức thanh toán không dùng tiền mặt đang gặp nhiều rào cản. (Ảnh minh họa: KT)
Bà Nguyễn Thị An, một người dân ở xã Song Phượng, huyện Đan Phượng, Hà Nội cho biết, theo quan sát của bà tại địa phương, không nhiều người biết sử dụng thẻ ngân hàng: "Phần lớn người dân ở đây vẫn sử dụng tiền mặt để thanh toán tiền điện, tiền nước hoặc ra nơi thu phí, thẻ ngân hàng thì rất ít người có, quan trọng là cũng không có nhiều quầy giao dịch, khiến việc thanh toán không dùng tiền mặt gặp khó khăn".
Tỷ lệ sử dụng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta còn rất thấp, một phần xuất phát từ thói quen tiêu dùng tiền mặt của người dân. Bên cạnh đó, đa phần tâm lý người mua muốn nhận và kiểm tra hàng trước khi thanh toán. Do đó, mặc dù số lượng tài khoản ngân hàng gia tăng nhưng việc tiếp cận các dịch vụ ngân hàng hiện đại còn thấp.
Ông Đào Minh Tuấn, Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Chủ tịch Hội thẻ Ngân hàng Việt Nam nêu thực tế: "Chúng ta có 77 triệu thẻ đang lưu hành nhưng trong đó có những thẻ không sử dụng hoặc sử dụng rất ít. Việc sử dụng thẻ để thanh toán hàng hóa dịch vụ rất khiêm tốn, chúng ta vẫn sử dụng thẻ để sử dụng tiền mặt, chiếm đến 94%".
Sử dụng thẻ ngân hàng chỉ để rút tiền mặt tiêu dùng là thực trạng cần thay đổi. Ông Nguyễn Thanh Hưng, Chủ tịch Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam nêu thực tế: "Theo báo cáo mới nhất của tổ chức đánh giá quốc tế, thương mại điện tử ở nước ta năm 2019 đã đạt khoảng 12 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử hiện cao nhất khu vực Đông Nam Á. Dự báo, năm 2020 với tốc độ tăng tiếp tục 40% thì Việt Nam có thể đạt 15,16 tỷ USD. Trong bức tranh đó, chúng tôi khảo sát thanh toán không dùng tiền mặt trong giao dịch thương mại điện tử đạt khoảng 20%, tức là thanh toán dùng tiền mặt trong các giao dịch thanh toán trực tuyến là tới 80%".
Như vậy, thay đổi thói quen tiêu dùng tiền mặt đồng thời với việc đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ thanh toán điện tử là đòi hỏi đặt ra đối với nền kinh tế nước ta, để nâng cao tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt. Trong quá trình này, sự phát triển của các công ty tài chính trên nền tảng công nghệ, gọi tắt là Fintech cũng đóng vai trò rất quan trọng.
Cũng theo phản ánh của các công ty tài chính công nghệ - Fintech, cần sớm hoàn thiện khung khổ pháp lý để tạo điều kiện phát triển thuận lợi cho thanh toán không dùng tiền mặt trong thời gian tới./.
Theo Trung Hiếu-Bảo Ngọc-Bá Toàn/VOV1
Pháp lý thử nghiệm cho fintech: Chờ đến bao giờ? Cơ quan quản lý nhà nước đã và đang triển khai xây dựng khung pháp lý thử nghiệm cho lĩnh vực công nghệ tài chính (fintech). Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, quá trình này cần được đẩy nhanh hơn nữa để tránh rủi ro cho thị trường và thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp fintech Việt Nam. Xây dựng khung...