Chùa Hương và những điều còn ít người biết
Chùa Hương là tên gọi dân gian, với một hang động ấn tượng và nổi tiếng – Động Hương Tích – được Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm vinh danh là “Nam Thiên đệ nhất động”
Vào thời kỳ ông rời phủ Chúa, viếng thăm các danh lam thắng cảnh trời Nam, đâu đó vào năm 1700, triều Lê Trung Hưng với chế độ “lưỡng đầu chế” khá đặc biệt trong lịch sử trung đại Việt Nam.
Tuy nhiên, chùa Hương không chỉ có động Hương Tích, mà nó là một quần thể các di tích lịch sử văn hóa, tôn giáo, danh lam thắng cảnh với hàng chục các ngôi chùa thờ phật, các ngôi đền thờ thần và các ngôi đình mang tín ngưỡng nông nghiệp của cư dân vùng châu thổ Bắc Bộ. Phức hợp ấy nay thuộc địa phận xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội – ngay bên bờ sông Đáy màu mỡ phù sa và thơ mộng, với cảnh quan sơn thủy đầy huyền ảo, được các tao nhân mặc khách ngợi ca, qua những bài thơ, áng văn, ở nhiều thời kỳ của lịch sử Việt Nam.
Với sự rộng lớn ấy của phức hợp chùa Hương, người viết không làm sao miêu thuật xuể những gì hiện hữu, với bao tuyến hành hương cũ, mới đan cài, với bao đường nước và đường mòn quanh núi đến với những hang động và chùa đền, cheo leo trên vách đá, theo đó, chỉ đơn cử những đơn nguyên đặc thù nhất để gợi nhắc tới di tích này. Phần còn lại, dành cho những điều, có liên quan tới lịch sử xa xăm của di tích và với cư dân sở hữu di sản này, nhưng chưa mấy ai biết đến.
Theo sử cũ, chùa Hương được khởi lập vào thế kỷ 17, dẫu rằng, những gì còn lại ở đây không mấy ủng hộ cho niên đại ấy.
Điểm nổi bật nhất của phức hợp này là chùa Trò hay còn gọi là chùa Thiên Trù. Du khách đi từ Bến Đục bằng thuyền, đến Bến Trò đã thấy thấp thoáng tam quan chùa qua những rặng cây lá cổ thụ xum xuê. Tam quan được cất trên khoảng sân tam cấp khá rộng rãi và thoáng đãng. Cấp thứ ba là tháp chuông, với ba tầng mái. Đây là một công trình kiến trúc cổ khá độc đáo, được chuyển dời từ chùa làng Cao Mật, tỉnh Hà Tây về đây năm 1980.
Chùa chính hay còn gọi là chùa Trong, chính là động Hương Tích. Đó là một hang động thiên nhiên rộng và thoáng. Đường xuống động có cổng lớn, trên có 4 chữ Hán “Hương Tích động môn”. Qua cổng là con dốc dài 120 bậc dẫn tới cửa hang. Nền hang rộng, thoáng và đẹp với nhiều nhũ thạch gắn liền với những câu chuyện và hình tượng mang nguyện ước của những người nông dân trồng lúa nước. Khách đến đây hành lễ, theo đó, tuyến hành hương này được xem là tuyến chính của phức hợp Hương Sơn tự.
Nếu du khách có đi thêm những tuyến khác, thì chủ yếu là để vãn cảnh và chiêm ngắm thiên nhiên hùng vĩ và hữu tình của núi non, mây trời sông nước nơi đây.
Ảnh minh họa
Điều tôi muốn nói tới, đó là hệ núi đá Hương Sơn có khá nhiều hang động và mái đá. Năm 1974, hang Sũng Sàm ở Thung Mơ được các nhà khảo cổ học khai quật. Đó là một hang động thuộc văn hóa Hòa Bình, cách đây 2 vạn năm với hàng trăm công cụ sản xuất bằng đá cuội được ghè đẽo, với một tầng văn hóa là vỏ ốc núi và ốc biển dầy hàng mét – chứng tích vật chất thức ăn của người Tiền sử được tìm thấy, chứng tích của thời kỳ biển dâng đến tận vùng núi này vào thời kỳ ấy, minh chứng cho việc tận dụng các hang động ở đây cho đời sống con người có lịch sử dài lâu, để rồi, người Hương Sơn thế hệ tiếp sau, thần linh hóa các hang động ấy như một tất yếu của lịch sử.
Thế nhưng, Sũng Sàm và nhiều hang động, mái đá khác của Hương Sơn, đã tìm thấy tàn tích của người Tiền sử, chưa được phát huy, quảng bá, theo đó, phức hợp chùa Hương, như mất đi những giá trị to lớn vốn có mà nó đã từng có. Chùa hang Sũng Sàm cần phải đưa nội dung này vào trưng bày và thờ phụng, hẳn sẽ có sức lôi cuốn nhiều hơn.
Không gian văn hóa Hương Sơn còn một câu chuyện khác mà tôi muốn nói tới trong bài viết này. Đó là hàng năm, vào ngày mùng Một, tháng Giêng Âm lịch, người dân Yên Vĩ và Đục Khê chia làm hai chiến tuyến, lấy suối Yến làm ranh giới. Hai bên dùng gạch đá, ném nhau cho tới khi, một trong hai bên có người bị thương chảy máu mới thôi. Câu chuyện này được giải thích như một cuộc tranh chấp đất đai, thông qua một vụ kiện có từ thời Tự Đức, qua những ghi chép điền dã từ những năm 80 của thế kỷ trước để lại. Tuy nhiên, tranh chấp đất đai chỉ là một hình ảnh khúc xạ, của một tín ngưỡng xa xăm.
Nhà dân tộc học Trần Từ nhìn thấy từ trong sâu thẳm của cuộc ẩu đả Yến Vĩ – Đục Khê là xuất phát từ tín ngưỡng phồn thực của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, mà hình tượng lấy đất cầm máu vết thương là ảnh xạ của tín ngưỡng nguyên thủy ấy. Máu được truyền vào đất đầu năm như là một sự tiếp sức cho sinh sôi, nảy nở.
Ảnh minh họa
Như vậy, chùa Hương, không chỉ có tâm linh, với chùa, đền và danh lam thắng cảnh. Không gian văn hóa này còn nhiều vấn đề chưa được khai thác và khám phá hết, theo đó, việc địa phương có ý tưởng đề xuất phức hợp chùa Hương như là một di sản văn hóa thế giới trong tương lai, thì cần phải có sự chuẩn bị từ hôm nay, trong công tác nghiên cứu và tập hợp tư liệu.
Theo Tạp chí điện tử Thế giới Di sản
Làng gốm Bát Tràng, làng rắn Lệ Mật những năm 90 có gì đặc biệt?
Làng gốm Bát Tràng, làng rắn Lệ Mật, làng tranh Đông Hồ, đền Cổ Loa, chùa Tây Phương, chùa Thầy, chùa Hương... năm 1991, 1992 có những khoảnh khắc thật đẹp qua loạt ảnh của nhiếp ảnh gia Đức Hans-Peter Grumpe.
Nhiếp ảnh gia Hans Peter Grumpe (người Đức), có một kho ảnh về Hà Nội, trong đó lưu giữ rất nhiều bức ảnh về các góc phố thân quen trong phố cổ. Ông từng 3 lần sang Việt Nam chụp hình ảnh người dân đủ tầng lớp nghỉ ngơi bên hồ Gươm, như cảnh chơi cờ, tập thể dục; người lao động nghèo mắc võng nghỉ trưa; đám trẻ leo cây hái quả hay tìm giấc ngủ trên những thân cây cổ thụ...
Trong các mùa hè năm 1991, 1992 và 1993, Hans-Peter Grumpe (nhiếp ảnh gia người Đức) đã 3 lần sang Việt Nam và đã chụp hàng nghìn bức ảnh suốt từ Nam ra Bắc lưu lại những khoảnh khắc bình dị của phong cảnh và con người Việt Nam trong những năm tháng vừa thoát khỏi bao cấp.
Dưới đây là loạt ảnh nhiếp ảnh gia người Đức chụp ngoại thành Hà Nội những năm 90 của thế kỷ trước.
Làng gốm Bát Tràng
Làng gốm Bát Tràng nằm ven sông Hồng thuộc huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Tên Bát Tràng được hình thành từ thời Lê, đó là sự hội nhập giữa 5 dòng họ gốm nổi tiếng của làng Bồ Bát xứ Thanh với dòng họ Nguyễn ở đất Minh Tràng.
Video đang HOT
Các lò nung sử dụng than làm nhiên liệu đốt.
Di tích Cổ Loa
Cổ Loa là kinh đô của nhà nước Âu Lạc, dưới thời An Dương Vương vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên và của nhà nước phong kiến dưới thời Ngô Quyền thế kỷ 10 sau Công nguyên. Hiện nay, di tích Cổ Loa thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội.
Đền thờ An Dương Vương ở khu di tích Cổ Loa, 1991.
Đền thờ tướng Cao Lỗ.
Phơi gạch trên đường làng.
Làng rắn Lệ Mật
Nhiếp ảnh gia người Đức mô tả về món thịt rắn ở làng Lệ Mật như sau: "Lệ Mật nằm ở ngoại ô Hà Nội, bên kia Sông Hồng. Hầu hết các gia đình sống ở đây bán thịt rắn và làm rượu rắn. Các con rắn được săn bắt hoặc mua từ những người nông dân trong khu vực. Chúng tôi thăm viếng một gia đình như vậy. Theo các công thức nấu ăn truyền thống, rắn từ năm loài khác nhau (kể cả rắn hổ mang) được chế biến ở đây. Trong những bình thủy tinh tròn lớn, người ta có thể nhận ra những con rắn 'ngâm' trong rượu gạo với các loại thảo mộc khác nhau. Rượu được dùng như một loại thuốc. Nó giúp trị bệnh thấp khớp, đau bụng, mất ăn, mất ngủ... Vâng, ai đó có thể tin vào điều này. Nhưng nó thực sự có vị khá ngon" .
Bể nuôi rắn.
Thưởng thức trà và rượu rắn.
Chùa Tây Phương
Chùa Tây Phương (Sùng Phúc tự) là một ngôi chùa ở trên đồi Câu Lâu ở thôn Yên, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội (năm 1991 thuộc tỉnh Hà Tây), cách trung tâm Hà Nội khoảng 35km. Đây là ngôi chùa mang giá trị nghệ thuật điêu khắc độc đáo với nhiều pho tượng thờ có giá trị.
Tượng La Hán chùa Tây Phương.
Chùa Thầy
Chùa Thầy là một ngôi chùa ở chân núi Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây cũ, nay là xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía Tây Nam. Sài Sơn có tên Nôm là núi Thầy, nên chùa được gọi là chùa Thầy. Chùa được xây dựng từ thời nhà Đinh. Đây từng là nơi tu hành của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, lúc này núi Thầy còn gọi là núi Phật Tích.
Toàn cảnh chùa Thầy những năm 90.
Thủy đình ở hồ Long Chiểu.
Cầu Nguyệt Tiên.
Cầu Nhật Tiên. Hai câu cầu ngói của chùa Thầy có từ thế kỷ 16.
Họa tiết trang trí trên mái cầu.
Ngói mũi hài dùng để lợp mái cầu.
Trong điện thờ.
Khu chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng nhìn từ đường lên núi.
Trên chùa Cao.
Khung cảnh nhìn từ sườn núi Thầy.
"Đồng bằng sông Hồng rất màu mỡ, khoảng một phần ba tổng sản lượng lúa gạo của Việt Nam được sản xuất ở đây. Khu vực này có rất nhiều đê điều" - Hans-Peter Grumpe.
Nghề nuôi tằm ở một ngôi làng phía Nam Hà Nội
Hans-Peter Grumpe viết về một ngôi làng phía Nam Hà Nội: "Trong một ngôi làng cách Hà Nội khoảng 30 km về phía Nam, chúng tôi 'phát hiện' ra những con tằm. Chúng tôi được nghe kể rằng sâu bướm được cho ăn lá dâu tằm trong khoảng từ 2 đến 3 tuần. Sau đó chúng được đặt trên trên giàn rơm. Việc hình thành một cái kén mất khoảng 2-3 ngày".
Chùa Hương
"Nằm cách Hà Nội khoảng 60 km về phía Nam, Chùa Hương gồm nhiều chùa và đền thờ được xây dựng bên các vách đá và trong động Hương Tích. Kinh nghiệm là di chuyển khoảng 2 tiếng đồng hồ bằng thuyền từ bến Đục qua 'Hạ Long trên cạn', một cảnh quan huyền diệu của các núi đá vôi, kênh rạch và ruộng lúa. Sau Tết Nguyên đán, có nhiều cuộc hành hương với hàng ngàn người hành hương về đây" - Hans-Peter Grumpe.
Bến Đục, điểm khởi đầu ở Chùa Hương.
Chăn vịt trên suối Yến.
Những người nông dân trên ruộng lúa.
Ruộng mía.
Động Hương Tích, điện thờ chính chùa chùa Hương. Hòn đá Đụn Gạo nằm giữa động.
Tháp chuông Chùa Hương.
Cuộc sống thường ngày quanh khu vực chùa Hương, 1991.
Làng tranh Đông Hồ
"Đông Hồ là một ngôi làng nhỏ cách Hà Nội 30 km về phía Đông. Trong nhiều thế kỷ và nhiều thế hệ, nghề làm tranh truyền thống đã tồn tại ở đây. Tuy nhiên, vào năm 1992, chỉ còn lại hai gia đình để làm nghề này, và Đông Hồ là làng duy nhất còn làm tranh Tết. Trước đây, những bức tranh năm mới này được tặng cho bạn bè và người thân để chúc họ may mắn. Chúng tôi thăm viếng nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế, người đã cho chúng tôi biết về quá trình in tranh và từ tôi đã mua một bộ tranh và một số bức tranh rời.
Tất cả các bức tranh được in thủ công, chủ yếu là với bốn màu. Do đó, có ít nhất bốn khối in cho mỗi bức tranh. Tất cả các vật liệu là sản phẩm từ tự nhiên, gồm màu sắc từ các loài cây và khoáng chất, giấy làm từ vỏ cây dó. Nền được tô màu trước khi in. Nội dung chủ yếu là 12 con giáp của Âm lịch: chuột, trâu, hổ, mèo, rồng, rắn, ngựa, dê, khỉ, gà, chó, lợn. Ngoài ra còn có những hình ảnh biểu tượng của hạnh phúc, những cảnh sinh hoạt hàng ngày, thậm chí là hình tượng biếm hoạ" .
Đường đến làng tranh Đông Hồ (Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế tại xưởng tranh.
Bản in đen (phác thảo).
Bản in hoàn thiện.
Các mẫu khuôn in tranh.
Theo thoidai.com.vn
Kinh nghiệm đi lễ hội chùa Hương Xin chia sẻ tới độc giả một số kinh nghiệm hữu ích cho chuyến du lịch lễ hội chùa Hương Xuân Canh Tý 2020. Lễ hội chùa Hương sẽ chính thức khai màn từ ngày mùng 6 tháng Giêng Nằm ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, chùa Hương là một điểm du lịch tâm linh hấp dẫn, đặc biệt là...