Chủ quan với polyp buồng tử cung – nguy cơ cao mắc ung thư và vô sinh
Mặc dù bản chất các khối polyp thường lành tính nhưng với các khối polyp lớn không được điều trị kịp thời sẽ gây viêm nhiễm và hoại tử lan tới nội mạc tử cung, cơ tử cung, lâu ngày sẽ dẫn đến ung thư tử cung.
Xử lý polyp thông qua phẫu thuật
Mới đây, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Thu Cúc TCI đã phẫu thuật cắt polyp buồng tử cung thông qua đường âm đạo cho bệnh nhân Nhâm Thị Thùy Dung (40 tuổi – trú tại Tây Hồ, Hà Nội).
Chị Dung đến tái khám khi trước đó ít hôm chị vừa tiến hành phẫu thuật cắt bỏ polyp dạ dày và polyp đại tràng. Sau khi khám và siêu âm bơm nước, chị được bác sĩ chẩn đoán mắc thêm polyp buồng tử cung cần phải phẫu thuật sớm.
Qua khai thác tiền sử bệnh, được biết chị Dung còn bị bệnh thiếu máu, từng mổ đẻ cũ 2 lần và đã phẫu thuật viêm ruột thừa. Chị Dung còn cho biết bản thân thường xuyên mệt mỏi, nhất là trong chu kỳ kinh nguyệt. Thời gian hành kinh thường kéo dài, có tháng tới 15 ngày kèm theo hiện tượng hoa mắt, chóng mặt.
Điều dưỡng kiểm tra thông tin cho chị Dung trước khi tiến hành phẫu thuật (Ảnh TCI).
Các bác sĩ đã chỉ định bệnh nhân nhập viện và tiến hành phẫu thuật cắt polyp buồng tử cung qua đường âm đạo. Trực tiếp phẫu thuật cho chị Dung là bác sĩ Nguyễn Thị Minh Đức – một trong những bác sĩ Sản phụ khoa giỏi của bệnh viện ĐKQT Thu Cúc TCI, nhiều kinh nghiệm trong việc thực hiện các thủ thuật liên quan đến các bệnh lý Sản phụ khoa.
“Rất may mắn vì tình trạng bệnh được phát hiện kịp thời nên quá trình phẫu thuật diễn ra thuận lợi, nhanh chóng lấy ra hai khối polyp với kích thước 19 x 11mm và 13 x 8mm khỏi buồng tử cung. Sức khỏe của chị Dung hồi phục tốt, được xuất viện về theo dõi tại nhà”, bác sĩ Đức chia sẻ.
Các bác sĩ đang tiến hành phẫu thuật cắt bỏ polyp buồng tử cung cho bệnh nhân (Ảnh TCI).
Bác sĩ Minh Đức cho biết thêm, phẫu thuật cắt polyp buồng tử cung qua âm đạo hiện là phương pháp hiện đại và tối ưu, hạn chế mổ bụng, xẻ tử cung phù hợp với trường hợp chị Dung khi đã từng nhiều lần mổ đẻ nhiều lần. Đồng thời, phương pháp phẫu thuật này giúp bệnh nhân ít đau sau mổ, phục hồi nhanh để sớm trở lại với công việc sinh hoạt hàng ngày.
Song song việc ưu tiên các phương pháp phẫu thuật tiên tiến thì quá trình xử lý khối polyp cũng đòi hỏi thao tác tỉ mỉ và thận trọng để tránh gây tổn thương cơ tử cung, ảnh hưởng đến khả năng mang thai sau này.
Hệ lụy khôn lường từ sự chủ quan bệnh vặt của chị em
Video đang HOT
Theo bác sĩ Đức, polyp là sự phát triển quá mức của mô nội mạc tử cung, là loại mô lót bên trong tử cung. Đây là bệnh lý phụ khoa khá phổ biến, xảy ra nhiều nhất ở phụ nữ tiền mãn kinh, mãn kinh.
Kích thước của polyp có thể từ vài milimet đến vài centimet, một hoặc nhiều polyp, có cuống hoặc không có cuống, và có thể phát triển ở bất cứ vị trí nào trong buồng tử cung gây ra tình trạng xuất huyết tử cung bất thường.
Bác sĩ cho bệnh nhân quan sát khối polyp buồng tử cung vừa được cắt bỏ (Ảnh TCI).
Mặc dù bản chất thường lành tính, tuy nhiên khối polyp có thể gây ra nhiều bệnh lý khác như: lạc nội mạc tử cung, hội chứng buồng trứng đa nang… Một số trường hợp polyp có thể là biểu hiện của ung thư trong tương lai bởi nó có thể phát triển từ các vị trí khác nhau của tử cung nếu không được phát hiện và điều trị sớm.
Tuy nhiên, đa số chị em phụ nữ vẫn chủ quan với bệnh này, vì không có triệu chứng rõ ràng và nghiêm trọng, chỉ được phát hiện tình cờ khi thăm khám sức khỏe định kỳ.
“Đến nay vẫn không có cách nào ngăn ngừa polyp buồng tử cung mà chỉ có thể hạn chế các khối polyp không phát triển thêm. Một khi chị em phụ nữ có polyp thì bắt buộc phải cắt vì hầu hết sẽ gây ra rối loạn kinh nguyệt, rong kinh kéo dài khiến cơ thể mất máu và ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống sinh hoạt”, bác sĩ Đức nhấn mạnh.
Thăm khám phụ khoa định kỳ để tránh các biến chứng nguy hiểm đến sức khỏe (Ảnh TCI).
Bác sĩ Minh Đức khuyến cáo, polyp cổ tử cung có thể ảnh hưởng đến khả năng thụ thai nên thăm khám sức khỏe định kỳ là cần thiết. Chị em phụ nữ khi có các dấu hiệu rối loạn kinh nguyệt bất thường như: rong kinh, cường kinh, chảy máu trong giai đoạn tiền mãn kinh hay sau khi mãn kinh, vô sinh nên lập tức đến các cơ sở y tế kiểm tra để được bác sĩ chuyên khoa tư vấn phác đồ hỗ trợ điều trị phù hợp nhằm tránh các biến chứng nguy hiểm đến sức khỏe.
Béo phì, không sinh con... dễ ung thư nội mạc tử cung
Ung thư nội mạc tử cung là loại ung thư phụ khoa ác tính, di căn không chỉ tới các cơ quan cận kề tử cung, buồng trứng mà còn di căn tới phổi, gan, não, xương...
Phòng ngừa loại ung thư này như thế nào?
Các bác sĩ Bệnh viện Phụ sản Hà Nội thăm khám cho bệnh nhân lạc nội mạc tử cung - Ảnh minh họa
Bác sĩ Trần Anh Tuấn, Bệnh viện K, cho biết ung thư nội mạc tử cung là loại ung thư phụ khoa thường gặp ở nữ giới. Bệnh có thể xảy ra ở bất kỳ độ tuổi nào, nhưng phổ biến hơn trong khoảng 45-75 tuổi. Hiện bệnh đang có xu hướng trẻ hóa.
Ra máu âm đạo bất thường là triệu chứng thường gặp trong ung thư nội mạc tử cung (75-90%).
Mất cân bằng hormone là tác nhân gây bệnh
Bác sĩ Tuấn phân tích, hệ thống sinh sản của nữ gồm hai buồng trứng, hai ống dẫn trứng, một tử cung và âm đạo. Các buồng trứng sản xuất hai hormone nữ chính là estrogen và progesterone. Sự cân bằng giữa hai sự thay đổi hormone mỗi tháng làm cho nội mạc tử cung dày lên trong thời kỳ đầu của chu kỳ hằng tháng.
Nếu thai kỳ không xảy ra, nội mạc tử cung sau đó được đổ ra trong giai đoạn cuối của chu kỳ kinh nguyệt. Khi sự cân bằng của hormone thay đổi, kích thích sự tăng trưởng của nội mạc tử cung, gia tăng nguy cơ phát triển ung thư nội mạc tử cung. Những yếu tố có mức tăng estrogen trong cơ thể bao gồm:
Nhiều năm có kinh nguyệt: Nếu bắt đầu có kinh ở độ tuổi sớm trước khi 12 tuổi hoặc bắt đầu thời kỳ mãn kinh muộn, có nguy cơ cao của bệnh ung thư nội mạc tử cung hơn là một người phụ nữ khác.
Không bao giờ có thai: Mang thai dường như giảm nguy cơ ung thư nội mạc tử cung, mặc dù các chuyên gia không chắc chắn chính xác tại sao điều này có thể. Cơ thể sản xuất estrogen nhiều hơn trong thai kỳ, nhưng nó tạo ra nhiều progesterone.
Progesterone tăng sản xuất có thể bù đắp những tác động của việc gia tăng mức estrogen. Cũng có thể không có được mang thai có thể là kết quả của vô sinh do sự rụng trứng không đều, đó là lý do tại sao những phụ nữ không bao giờ mang thai có nguy cơ ung thư nội mạc tử cung.
Không thường xuyên rụng trứng:Sự rụng trứng, việc phát hành hằng tháng của một quả trứng từ một buồng trứng ở phụ nữ có kinh, là quy định của estrogen. Không thường xuyên rụng trứng hoặc không rụng trứng làm tăng tiếp xúc với estrogen.
Sự rụng trứng không đều có nhiều nguyên nhân, bao gồm cả béo phì và tình trạng được gọi là hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS).
Đây là một tình trạng mất cân bằng nội tiết tố, trong đó ngăn chặn sự rụng trứng và kinh nguyệt. Điều trị bệnh béo phì và quản lý các triệu chứng của PCOS có thể giúp phục hồi sự rụng trứng hằng tháng và chu kỳ kinh nguyệt, giảm nguy cơ ung thư nội mạc tử cung.
Bệnh béo phì:Buồng trứng không phải là nguồn duy nhất của estrogen. Mô mỡ có thể sản xuất estrogen. Béo phì có thể làm tăng mức độ estrogen trong cơ thể, đưa tới có nguy cơ cao của bệnh ung thư nội mạc tử cung và ung thư khác.
Béo phì, phụ nữ có nguy cơ ung thư nội mạc tử cung gấp 3 lần và phụ nữ thừa cân có nguy cơ gấp hai lần. Tuy nhiên, phụ nữ gầy cũng có thể phát triển ung thư nội mạc tử cung.
Chế độ ăn giàu chất béo. Loại chế độ ăn uống có thể thêm vào nguy cơ ung thư nội mạc tử cung bằng cách thúc đẩy béo phì. Hoặc thực phẩm béo trực tiếp ảnh hưởng đến sự trao đổi chất estrogen, làm tăng thêm nguy cơ ung thư nội mạc tử cung cho phụ nữ.
Điều trị nội tiết giảm nguy cơ
Theo bác sĩ Tuấn, hầu hết các trường hợp ung thư nội mạc tử cung không ngăn ngừa được, song các yếu tố dưới đây có thể giảm nguy cơ phát triển bệnh:
Điều trị hormone (HT) với progestin: Estrogen kích thích sự tăng trưởng của nội mạc tử cung. Thay thế estrogen sau khi mãn kinh có thể làm tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung. Lấy progestin tổng hợp, một hình thức của các hormone progesterone với estrogen trị liệu kết hợp làm giảm nguy cơ.
Nhưng không phải tất cả các ảnh hưởng của HT là tích cực. Lấy HT như là một liệu pháp kết hợp có thể gây tác dụng phụ nghiêm trọng và nguy cơ sức khỏe, chẳng hạn như là một nguy cơ cao của bệnh ung thư vú và cục máu đông. Vì vậy, cần trao đổi với bác sĩ để đánh giá các lựa chọn và quyết định những gì tốt nhất.
Sử dụng thuốc tránh thai lâu dài: Sử dụng thuốc ngừa thai uống có thể làm giảm nguy cơ ung thư nội mạc tử cung, ngay cả 10 năm sau khi ngừng thuốc. Rủi ro là thấp nhất ở những phụ nữ mang thai uống nhiều năm.
Duy trì một trọng lượng khỏe mạnh: Béo phì là một trong những yếu tố nguy cơ quan trọng nhất cho sự phát triển của bệnh ung thư nội mạc tử cung. Có thể giúp ngăn ngừa ung thư nội mạc tử cung bằng cách duy trì một trọng lượng khỏe mạnh.
Các mô chất béo dư thừa có thể làm tăng mức độ estrogen trong cơ thể, làm tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung. Duy trì một trọng lượng khỏe mạnh khi có tuổi làm giảm nguy cơ ung thư nội mạc tử cung cũng như các bệnh khác.
Tập thể dục: Thường xuyên tập thể dục có thể có một ảnh hưởng rất lớn về nguy cơ ung thư nội mạc tử cung. Theo Hiệp hội Ung thư Mỹ, những phụ nữ tham gia vào tập thể dục mỗi ngày sẽ có một nửa nguy cơ ung thư nội mạc tử cung so với những phụ nữ không tập thể dục.
Sử dụng thực phẩm chức năng tăng cơ khi tập gym, chàng trai nhận kết quả vô sinh Luôn rèn luyện sức khoẻ hàng ngày, ăn uống điều độ, không sử dụng rượu bia hay thuốc lá nhưng kết hôn 2 năm anh Nam 30 tuổi vẫn chưa có con. Anh Nguyễn Đức Nam, (30 tuổi ở Hà Nội) cùng vợ đến Bệnh viện Phụ sản Trung ương thăm khám sau 2 năm lấy nhau những mãi chưa có con. Vợ...