Chờ sóng bán vốn ngoại ngân hàng 2021
Làn sóng mua bán – sáp nhập (M&A) ngân hàng đang trở lại, nhưng không phải giữa các ngân hàng nội, mà với đối tác chiến lược nước ngoài.
Cơ hội M&A ngân hàng nội là rộng mở với các nhà đầu tư nước ngoài. Ảnh: Shutter Stocks
Dấu ấn từ những thương vụ thành công
Trong 5 năm qua, hoạt động M&A giữa các ngân hàng nội đã “lặng sóng”. Kể cả thương vụ sáp nhập PGBank vào HDBank dù đã được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận nhưng đến nay vẫn chưa hoàn tất.
Ngược lại, các thương vụ M&A giữa nhà đầu tư nước ngoài và ngân hàng trong nước trở nên sôi động hơn. Sau các thương vụ bán cổ phần của Techcombank, HDBank, TPBank cho các nhà đầu tư ngoại trước khi niêm yết trên HOSE từ đầu năm 2018, hoạt động M&A ngân hàng tới nay mới thiết lập kỷ lục mới bằng thương vụ BIDV bán cổ phần cho cổ đông chiến lược KEB Hana Bank (Hàn Quốc) giá trị gần 20.300 tỷ đồng (tương đương 875 triệu USD).
Nguồn tiền từ nhà đầu tư chiến lược nước ngoài không chỉ giúp các ngân hàng trong nước giải cơn khát vốn và BIDV là một ví dụ khi hệ số an toàn vốn CAR đạt mức 8,77% tính đến cuối năm 2019 sau khi bán vốn – đáp ứng tiêu chuẩn Basell II (tối thiểu 8%), mà còn mang đến kỳ vọng về sự sôi động trở lại của làn sóng ngân hàng ngoại đầu tư vào Việt Nam thông qua hoạt động M&A.
Tuy nhiên, để có được một cổ đông chiến lược nước ngoài phù hợp là không đơn giản với mỗi ngân hàng, bởi có nhiều thương vụ kéo dài hàng năm trời mới đi đến kết quả, ví dụ như thương vụ bán 15% vốn điều lệ của OCB cho Aozora Bank (AOZ – Nhật Bản) vào giữa tháng 6/2020. Ông Trịnh Văn Tuấn, Chủ tịch HĐQT OCB, cho biết, trước khi bán cổ phần cho AOZ, Ngân hàng đã làm việc với nhiều đối tác từ hơn 2 năm trước đó.
Đợi sóng bán vốn 2021
Theo đánh giá của chuyên gia tài chính Huỳnh Trung Minh, việc huy động vốn ngoại để tăng tiềm lực tài chính luôn được ngân hàng trong nước quan tâm, nhất là các nhà băng quy mô nhỏ. Tuy nhiên, kể từ khi Covid-19 bùng phát, không những doanh nghiệp trong nước, mà ngay cả tập đoàn tài chính lớn trên thế giới cũng bị tác động. Các nhà băng còn nguyên room ngoại hay đã gần cạn room cũng muốn có khoảng trống để tìm cơ hội sau khi Covid-19 được kiểm soát hoàn toàn. Vì vậy, không ít ngân hàng đã “khóa” room ngoại chờ cơ hội tốt gọi vốn.
Video đang HOT
Techcombank chỉ thay đổi một chút room ngoại về mức 22,5% để giúp Tổng giám đốc người nước ngoài được mua 439.000 cổ phiếu TCB thông qua giao dịch nhận chuyển nhượng cổ phiếu đang lưu hành trên thị trường chứng khoán.
HDBank cũng công bố Nghị quyết HĐQT điều chỉnh tỷ lệ sở hữu cổ phiếu của nhà đầu tư ngoại từ 30% về mức 21,5% để thuận lợi cho kế hoạch hợp tác với các đối tác chiến lược trong thời gian tới.
Tương tự, VPBank quyết định “để dành” room cho khối ngoại khi giảm tỷ lệ sở hữu từ 22,77% về mức 15%. Kể từ khi chia tay Ngân hàng Singapore Oversea – Chinese (OCBC) vào cuối năm 2013, đến nay VPBank vẫn chưa có cổ đông chiến lược nước ngoài mới.
Ngày 12/10/2020, Viet Capital Bank (BVB) đã chốt danh sách cổ đông để thực hiện lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản thông qua việc ủy quyền cho HĐQT Ngân hàng quyết định tỷ lệ sở hữu của cổ đông nước ngoài theo quy định hiện hành (tỷ lệ tối đa là 30%).
Trong kế hoạch tăng vốn từ 5.000 tỷ đồng lên 7.000 tỷ đồng năm nay, Nam A Bank cho biết, sẽ hút thêm vốn từ nhà đầu tư nước ngoài. Hiện room ngoại tại Nam A Bank còn nguyên 30%. Tổng giám đốc Nam A Bank, ông Trần Ngọc Tâm cho hay, Ngân hàng đã có nhiều cuộc đàm phán với các đối tác để sớm chốt room ngoại trước khi đưa cổ phiếu đang giao dịch tại UPCoM lên niêm yết trên HOSE trong thời gian tới.
Theo kế hoạch năm 2020, SCB sẽ phát hành 500 triệu cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu, nhà đầu tư trong và ngoài nước với giá chào bán không thấp hơn 10.000 đồng/cổ phiếu, qua đó nâng vốn điều lệ từ 15.232 tỷ đồng lên 20.232 tỷ đồng. Thời gian hoàn tất phát hành trong giai đoạn 2020-2021. Lãnh đạo SCB cho biết, Ngân hàng đang trong quá trình đàm phán với các đối tác chiến lược, bao gồm cả đối tác nước ngước ngoài để huy động vốn.
Với NCB, ngân hàng này lên kế hoạch bán vốn cho nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và được cổ đông thông qua từ năm 2017. Tuy nhiên, theo ông Vũ Mạnh Tiến, Phó chủ tịch thường trực HĐQT NCB, Ngân hàng sẽ không chọn bằng mọi giá, mà dựa trên các tiêu chí đã được đặt ra để tìm đối tác phù hợp.
Theo quy định tại Nghị định số 01/2014/NĐ-CP, tỷ lệ sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài không được vượt quá 20% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng Việt Nam và tổng tỷ lệ sở hữu cổ phần của tất cả các nhà đầu tư nước ngoài tại một tổ chức tín dụng trong nước không được vượt quá 30% vốn.
Hiện tại, nhiều ngân hàng Việt Nam đã bán vốn cho nhà đầu tư nước ngoài, song cũng còn không ít ngân hàng vẫn còn nguyên room ngoại. Đó là chưa kể với các ngân hàng đang tái cơ cấu hay 3 ngân hàng “0 đồng”, đối tác nước ngoài có thể mua 100% vốn nếu được sự đồng ý của Chính phủ, nên cơ hội là rộng mở với các nhà đầu tư này.
Mặt khác, theo Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), các ngân hàng châu Âu sẽ được nâng tỷ lệ sở hữu cổ phần tại 2 ngân hàng Việt Nam lên tối đa 49% mà không phải chờ quyết định nới room. Cam kết này không áp dụng với 4 ngân hàng có vốn Nhà nước chi phối (BIDV, VietinBank, Vietcombank, Agribank).
Theo đánh giá của Công ty Chứng khoán Đầu tư Việt Nam (IVS), các ngân hàng VIB, VPBank, Techcombank và ACB là những ứng viên tiềm năng có thể được xem xét nới room ngoại theo đề xuất của các ngân hàng châu Âu theo EVFTA. Hiện ACB đã cạn room ngoại, Techcombank, VIB và VPBank hạ room ngoại về các mức tương ứng 22,5%, 20,5% và 15%.
Ngân hàng xoay xở ra sao trong vòng xoáy nợ xấu?
Trong số 27 ngân hàng thương mại, có tới 8 ngân hàng lựa chọn cùng một phương án mang tính đánh đổi: "lỏng tay" hơn trong xử lý và dự phòng nợ xấu để chạy theo tăng trưởng lợi nhuận.
Ngân hàng xoay xở ra sao trong vòng xoáy nợ xấu?
Chu kỳ nợ xấu mới đang bắt đầu, gối đầu với hồi kết của chu kỳ nợ xấu cũ.
Số liệu nợ xấu 9 tháng năm 2020 đang minh chứng cho điều này khi tổng nợ xấu nội bảng của 27 ngân hàng thương mại (*) tăng tới 31%, tương đương tăng gần 25.100 tỷ; nợ tái cơ cấu theo Thông tư Thông tư 01/2020/TT-NHNN ngày càng tăng, đến ngày 28/9/2020 đã chiếm tới 3,8% tổng dư nợ toàn hệ thống. Trái ngược, tổng giá trị trái phiếu đặc biệt tại VAMC của 27 ngân hàng giảm 22%, tương đương giảm gần 23.800 tỷ (x em thêm: Thực hư chuyện nợ xấu ngân hàng tăng mạnh).
Chu kỳ nợ xấu mới kéo theo mối lo về lợi nhuận ngân hàng, bởi khi phát sinh nợ xấu, ngân hàng phải trích lập dự phòng theo quy định và nghiệp vụ này làm bào mòn lợi nhuận. Mức độ trích lập dự phòng sẽ tùy thuộc vào nhóm nợ (nợ nhóm 3, nợ nhóm 4 hoặc nợ nhóm 5) và giá trị tài sản bảo đảm của khoản nợ.
Mặc dù quy định về hạch toán nợ xấu cũng như trích lập dự phòng đã khá chặt chẽ nhưng không tránh khỏi những "lỗ hổng" giúp ngân hàng có không gian để "điều tiết" mức độ trích lập dự phòng, điển hình là việc xác định giá trị tài sản bảo đảm. Đối với một khoản nợ xấu đã xác định nhóm nợ, giá trị tài sản bảo đảm càng thấp thì mức độ trích lập dự phòng càng cao, nhờ vậy mà ngân hàng có thể "điều tiết" lượng trích lập dự phòng thông qua việc "điều tiết" giá trị tài sản bảo đảm, bởi việc xác định giá trị tài sản bảo đảm phụ thuộc không ít vào các yếu tố định tính.
Ngân hàng có thể "điều tiết" trích lập dự phòng, cũng nghĩa là có thể "điều tiết" lợi nhuận. Tuy nhiên, quy mô nợ xấu thì khó "điều tiết" hơn do quy định hiện hành khá rõ ràng và phần đông các ngân hàng đã sử dụng hệ thống phân loại nhóm nợ tự động.
Việc theo dõi sự biến động của 3 yếu tố lợi nhuận - dự phòng - nợ xấu có thể giúp hình dung được những sự "điều tiết", xoay xở khác nhau của các ngân hàng, chẳng hạn ưu tiên tăng trưởng lợi nhuận hay xử lý nợ xấu. Tương ứng với 3 yếu tố này là 3 chỉ tiêu: biến động lợi nhuận trước thuế - biến động tỷ lệ bao phủ nợ xấu - biến động tỷ lệ nợ xấu.
Tỷ lệ bao phủ nợ xấu = số dư dự phòng/quy mô nợ xấu, được ví như chỉ tiêu phản ánh "bộ đệm" rủi ro nợ xấu. Tỷ lệ này càng cao thì mỗi đồng nợ xấu càng được dự phòng nhiều, đồng nghĩa mức độ an toàn càng cao. Ví dụ, tỷ lệ này là 50% thì mỗi đồng nợ xấu được dự phòng bởi 0,5 đồng dự phòng; tỷ lệ này là 200% thì mỗi đồng nợ xấu được dự phòng bởi 2 đồng dự phòng.
Quan sát cho thấy, trong số 27 ngân hàng thương mại trong diện thống kê, có tới 8 ngân hàng lựa chọn cùng một phương án mang tính đánh đổi: chấp nhận tăng tỷ lệ nợ xấu, giảm tỷ lệ bao phủ nợ xấu để gia tăng lợi nhuận (trong đó, nợ xấu bao gồm cả nợ xấu nội bảng và giá trị trái phiếu đặc biệt tại VAMC). Nói cách khác, các ngân hàng này "lỏng tay" hơn trong xử lý và dự phòng nợ xấu để chạy theo tăng trưởng lợi nhuận.
Các ngân hàng có xu hướng chạy theo tăng trưởng lợi nhuận này bao gồm: VietinBank, ACB, VPBank, HDBank, VIB, TPBank, OCB, ABBank. Tăng trưởng lợi nhuận trước thuế bình quân 9 tháng năm nay của 8 ngân hàng này lên đến 24% so với cùng kỳ năm ngoái, bất chấp ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19.
Lựa chọn ưu tiên tăng trưởng lợi nhuận hơn là xử lý nợ xấu không phải là lựa chọn tồi nếu như quy mô nợ xấu của ngân hàng ở mức thấp hoặc/và tỷ lệ bao phủ nợ xấu ở mức cao, đồng nghĩa có đủ dư địa để tiếp nhận thêm nợ xấu nhưng vẫn đảm bảo kiểm soát được mức độ an toàn. Nếu không có các điều kiện trên, lựa chọn này có phần mạo hiểm.
Một số ngân hàng thì thận trọng hơn khi chỉ giữ lợi nhuận đi ngang hoặc tăng nhẹ, thay vào đó, ưu tiên giảm tỷ lệ nợ xấu (như Eximbank và LienVietPostBank) hoặc tăng tỷ lệ bao phủ nợ xấu (như MB), hoặc tích cực hơn là đồng thời giảm tỷ lệ nợ xấu và tăng tỷ lệ bao phủ nợ xấu (như BIDV).
Thận trọng hơn nữa thì có Vietcombank và BacABank. Đây là 2 ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu thấp, tỷ lệ bao phủ nợ xấu rất cao, nghĩa là có nhiều dư địa để chạy theo tăng trưởng lợi nhuận mà vẫn kiểm soát tốt mức độ an toàn. Tuy nhiên, 2 ngân hàng này lại chọn cách hy sinh tăng trưởng lợi nhuận để gia tăng hơn nữa tỷ lệ bao phủ nợ xấu, nhằm tăng cường "bộ đệm" an toàn cho nợ xấu. Lựa chọn này cho phép Vietcombank và BacABank có thể nhanh chóng tái cân bằng sau khi lượng nợ xấu tái cơ cấu theo Thông tư 01 dần dần được ghi nhận vào báo cáo tài chính.
Không phải ngân hàng nào cũng có nhiều sự lựa chọn, điển hình là 4 ngân hàng Kienlongbank, NamABank, Saigonbank, VietBank. 9 tháng năm nay, không những lợi nhuận giảm mà tỷ lệ nợ xấu của 4 ngân hàng này còn tăng, thêm vào đó, tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm. Các tín hiệu kém khả quan này phần nào phản ánh vấn đề về sức khỏe tài chính và sức mạnh cạnh tranh của 4 ngân hàng trên.
Có phần tương tự là câu chuyện ở SCB, Sacombank, PGBank. Tỷ lệ nợ xấu quá cao khiến các ngân hàng này buộc phải hy sinh lợi nhuận để mạnh tay giảm nợ xấu. Nhờ giảm mạnh quy mô nợ xấu nên tỷ lệ bao phủ nợ xấu cũng được cải thiện dù mức độ cải thiện khá khiêm tốn, tuy vậy, tỷ lệ bao phủ nợ xấu vẫn ở mức rất thấp, từ 25 - 50%, cho thấy "bộ đệm" an toàn vẫn mỏng.
Trong số 27 ngân hàng thương mại, số ít ngân hàng gồm SeABank, VietCapitalBank, MSB và Techcombank đồng loạt ghi nhận 3 tín hiệu tốt: lợi nhuận tăng, tỷ lệ nợ xấu giảm và tỷ lệ bao phủ nợ xấu tăng. Kết quả này càng đặc biệt hơn trong bối cảnh ngành ngân hàng đang chịu tác động tiêu cực rõ rệt của dịch Covid-19.
Về nguyên nhân, SeABank, VietCapitalBank và MSB là 3 trường hợp đã sạch nợ VAMC trong năm nay, vì vậy gánh nặng nợ xấu đã nhẹ hơn nhiều, cùng với đó, mức nền lợi nhuận thấp của năm ngoái (do phải dành nguồn lực xử lý nợ xấu VAMC) cũng tạo điều kiện ghi nhận tăng trưởng lợi nhuận cao trong năm nay.
Riêng với Techcombank, các tín hiệu tích cực trên cho thấy sức khỏe tài chính và sức mạnh cạnh tranh của ngân hàng này là vượt trội so với mặt bằng chung.
(*) 27 ngân hàng thương mại bao gồm: ABBank, ACB, BacABank, BIDV, Eximbank, HDBank, Kienlongbank, LienVietPostBank, MB, MSB, NamABank, NCB, OCB, PGBank, Sacombank, Saigonbank, SCB, SeABank, SHB, Techcombank, TPBank, VIB, VietCapitalBank, VietBank, Vietcombank, VietinBank, VPBank; trong đó, riêng HDBank và VPBank là số liệu báo cáo tài chính riêng lẻ (do tỷ lệ nợ xấu hợp nhất chịu tác động lớn của công ty tài chính tiêu dùng trực thuộc), còn lại là số liệu báo cáo tài chính hợp nhất.
Tăng mạnh trích lập dự phòng, lợi nhuận PGBank quý 3/2020 giảm mạnh 70% Lợi nhuận trước thuế của ngân hàng đạt 21,2 tỷ đồng, giảm 70% so với cùng kỳ năm ngoái. Ngân hàng TMCP Xăng Dầu Petrolimex (PGBank) vừa công bố BCTC hợp nhất quý 3/2020. Trong quý 3/2020, lợi nhuận trước thuế của ngân hàng đạt 21,2 tỷ đồng, giảm 70% so với cùng kỳ năm ngoái. Nguyên nhân tăng trưởng âm chủ yếu...