Chính sách tiền tệ năm 2019: Ưu tiên kiểm soát tín dụng và nợ xấu
Định hướng tăng trưởng tín dụng ở mức 14%, tập trung tín dụng vào sản xuất kinh doanh, giám sát chặt chẽ các khoản cho vay đối với các lĩnh vực rủi ro, đồng thời kiểm soát nợ xấu ở mức an toàn là trọng tâm điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong năm 2019.
Đến nay đã có 3 ngân hàng được công nhận đạt tiêu chuẩn Basel II. Ảnh: Minh Dũng
Đạt Basel II, được tăng trưởng tín dụng cao hơn
NHNN cho biết, đến cuối năm 2018, tăng trưởng tín dụng đạt khoảng 14% so với cuối năm 2017. Cơ cấu tín dụng tiếp tục có sự điều chỉnh tích cực, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên. Tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát ở mức hợp lý.
Theo bà Nguyễn Thị Hồng, Phó Thống đốc NHNN, mức tăng trưởng trong tầm kiểm soát này là phù hợp với bối cảnh nền kinh tế hiện nay và định hướng của NHNN tiếp tục là đáp ứng vốn cho nền kinh tế, đồng thời kiểm soát chặt chẽ các rủi ro của hệ thống.
Về chính sách tín dụng năm 2019, NHNN định hướng tăng trưởng ở mức 14%. Theo đó, NHNN sẽ thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với từng tổ chức tín dụng (TCTD) trên cơ sở đánh giá tình hình hoạt động và khả năng tăng trưởng tín dụng lành mạnh. NHNN sẽ chỉ đạo các TCTD kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng khoán…; tăng cường quản lý rủi ro đối với các dự án BOT, BT giao thông, tín dụng tiêu dùng; kiểm soát cho vay bằng ngoại tệ và có lộ trình phù hợp giảm dần cho vay bằng ngoại tệ.
Liên quan đến chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng của từng ngân hàng, theo bà Hồng, trong năm 2019, NHNN tiếp tục khuyến khích các ngân hàng tái cơ cấu và nâng cao khả năng quản trị.
“Theo Thông tư 41/2016/TT-NHNN, còn một năm nữa là các ngân hàng phải đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) theo tiêu chuẩn Basel II. Để thực hiện được điều này, các ngân hàng phải vào cuộc quyết liệt. NHNN khuyến khích các ngân hàng thực hiện quy định này càng sớm càng tốt. Các ngân hàng đáp ứng được tiêu chuẩn nêu trên trước ngày 1/1/2020 sẽ được cho phép tăng trưởng tín dụng ở mức cao hơn so với các TCTD khác”, bà Hồng cho biết và thông tin thêm: “NHNN đã thành lập tổ chức thẩm định việc thực hiện quy định này tại các ngân hàng. Đến nay, đã có 3 ngân hàng được công nhận đạt tiêu chuẩn Basel II”.
Không để phát sinh nợ xấu ngoài tầm kiểm soát
Video đang HOT
Bên cạnh chú trọng kiểm soát tăng trưởng tín dụng, việc giám sát chặt chẽ quá trình thực hiện cơ cấu lại các TCTD gắn với xử lý nợ xấu cũng được coi là nhiệm vụ trọng tâm của toàn ngành ngân hàng.
Liên quan đến công tác xử lý nợ xấu của các TCTD, NHNN cho biết đã và đang phối hợp với các TCTD triển khai nhiều giải pháp để thực hiện Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD và Quyết định 1058/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 – 2020″.
Ông Trần Đăng Phi, Phó Chánh Thanh tra Cơ quan Thanh tra, giám sát của NHNN cho biết, việc xử lý nợ xấu theo hai văn bản nêu trên đã đạt được kết quả rất tích cực trong năm 2017 và 2018. Theo đó, các chỉ số cơ bản của hệ thống tín dụng vào thời điểm cuối năm 2018 là khả quan, nợ xấu, nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu (gồm nợ xấu đã bán cho VAMC hiện chưa xử lý được và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu) ở mức trên 5%. Năm 2019, ngành ngân hàng sẽ phấn đấu đưa chỉ tiêu này xuống mức dưới 5% theo yêu cầu tại Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2019.
“Việc xử lý nợ xấu là khó khăn và có nhiều vướng mắc, bởi không đơn thuần là công việc của ngành ngân hàng mà còn liên quan đến các bộ, ban ngành. Với yêu cầu của Chính phủ về xử lý nợ xấu, trong năm 2019, cần đặc biệt quan tâm xử lý nợ xấu từ việc tháo gỡ các vướng mắc, đáng chú ý là những quy định về thu giữ tài sản đảm bảo. NHNN đang trình Chính phủ các nội dung tháo gỡ vướng mắc có liên quan đến các bộ, ngành khác để có các giải pháp phối hợp cùng giải quyết”, ông Phi nói.
Đại diện Cơ quan Thanh tra, giám sát của NHNN cho biết thêm: ngành ngân hàng sẽ đẩy mạnh và tăng cường kiểm soát chất lượng tín dụng, không để nợ xấu mới phát sinh ngoài tầm kiểm soát, dù nợ xấu là rủi ro đồng hành với hoạt động của ngành ngân hàng. NHNN sẽ tăng cường chỉ đạo các TCTD đảm bảo tăng trưởng tín dụng với các lĩnh vực ưu tiên, hạn chế cấp tín dụng vào các lĩnh vực rủi ro, đồng thời tiết kiệm chi phí không cần thiết, tạo điều kiện trích lập dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu nhanh.
Hoàng Oanh
Theo baodauthau.vn
Ngân hàng Việt: Sinh lời cao hơn không đồng nghĩa bảo toàn vốn tốt
Ngành ngân hàng đã khép lại một năm 2018 với con số tăng trưởng lợi nhuận khá ấn tượng.
2018, lợi nhuận toàn ngành tăng trưởng tới 40%
Báo cáo Tổng quan thị trường tài chính năm 2018 của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia (NFSC) vừa công bố cho biết, tổng lợi nhuận sau thuế của các định chế tài chính ước tăng 33% so với năm 2017.
Trong đó, lợi nhuận của các tổ chức tín dụng ước tăng 40%; lợi nhuận các công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ tăng 18,1%. Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận của hệ thống tổ chức tín dụng nhanh hơn so với đà tăng của tổng tài sản hệ thống tổ chức tín dụng (khoảng 11,5% so với cuối năm 2017).
Tổng tín dụng ước tăng khoảng 14 - 15% trong năm 2018 (năm 2017 tăng 17,6%). ây là mức tăng trưởng thấp nhất trong khoang 3 năm trở lại đây, nhưng phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Theo các tổ chức tín dụng báo cáo, dư nợ tín dụng vào lĩnh vực bất động sản chiếm khoảng 16,6% tổng tín dụng của toàn hệ thống; dư nợ cho vay phục vụ đời sống chiếm 18,8% tổng dư nợ của hệ thống tổ chức tín dụng.
Báo cáo từ các tổ chức tín dụng cũng cho thấy, tỷ lệ nợ xấu cuối năm 2018 giảm nhẹ so với cuối năm 2017, bình quân toàn ngành ở mức 2,4% (cuối năm 2017 là 2,5%). Dự phòng rủi ro tín dụng tăng khoảng 30,1% so với cuối năm 2017.
Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng so với nợ xấu báo cáo cải thiện lên mức 78,2% (năm 2017: 65,4%). Bên cạnh đó, giá trị xử lý nợ xấu năm 2018 tăng khoảng 30% so với năm 2017 (không bao gồm nợ bán cho VAMC). Trong đó, sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng chiếm 59,8%; thu nợ từ khách hàng chiếm 33,2%; bán phát mại tài sản chiếm 3%, còn lại bằng các hình thức khác.
ADVERTISEMENT
"Một số ngân hàng thương mại đã tất toán toàn bộ nợ xấu đã bán cho VAMC hoặc chủ động mua lại các khoản nợ đã bán cho VAMC để tự xử lý. Sau hơn một năm thực hiện Nghị quyết 42 của Quốc hội về xử lý nợ xấu, hệ thống tổ chức tín dụng xử lý được khoảng 30% nợ xấu xác định tại thời điểm 15/8/2017", ông Nguyễn Văn Thùy, Phó trưởng ban Ban Nghiên cứu và điều phối chính sách giám sát, NFSC nhận định.
... Nhưng an toàn vốn vẫn đáng quan ngại?
Nhận định về tình hình tài chính của ngành ngân hàng, ông Phạm Hồng Hải, Tổng giám đốc HSBC Việt Nam cho rằng, khả năng sinh lời và chất lượng tài sản đã được cải thiện rất nhiều trong năm 2018, tuy nhiên, an toàn vốn vẫn là một vấn đề đáng quan ngại.
Theo ông Hải, tỷ lệ nợ xấu giảm qua hàng năm kể từ mức đỉnh trong năm 2012. Tuy nhiên, phần lớn sự suy giảm này là nhờ bán nợ cho VAMC.
Quá trình này được hỗ trợ thông qua những cải cách mà Chính phủ thi hành, bao gồm những biện pháp tạo thuận lợi cho cả ngân hàng và VAMC để thu giữ tài sản thế chấp khi người đi vay phá sản. iều này làm gia tăng khả năng thu hồi tài sản từ nợ xấu. Chất lượng tài sản đã được cải thiện trong những năm gần đây, đặc biệt khi Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các biện pháp đảm bảo về vĩ mô để giảm cho vay trong những lĩnh vực ít năng suất hay có tính chất như đầu cơ bất động sản.
"Một số biện pháp vĩ mô này phải kể đến Thông tư 06/2016/TT-NHNN gia tăng tỷ trọng rủi ro của các khoản vay bất động sản từ 150% tới 200% của bảng cân đối tài sản bắt đầu từ năm 2017. Ngân hàng Nhà nước cũng hạ tỷ lệ vốn ngắn hạn ngân hàng có thể sử dụng để tài trợ cho các dự án trung dài hạn từ 60% của năm 2016 tới 40% bắt đầu từ năm 2019.
Những cải cách này đã góp phần gia tăng chất lượng tài sản của ngân hàng, trong khi đảm bảo các bong bóng không được hình thành trong nền kinh tế. Ngoài ra, thị trường bất động sản ấm lên trong vài năm gần đây cũng giúp các ngân hàng xử lý các tài sản thế chấp bằng bất động sản", ông Hải nói.
Mặt khác, cũng theo ông Hải, khả năng sinh lời cao hơn không nhất thiết dẫn tới khả năng an toàn vốn tốt hơn đối với nhiều ngân hàng.
Tỷ lệ an toàn vốn trung bình trong ngành ngân hàng đã giảm dần trong các năm qua khi tài sản ngân hàng gia tăng nhanh không đi cùng với khả năng ngân hàng tăng vốn cấp 1.
Vấn đề này thậm chí còn lớn hơn ở những ngân hàng quốc doanh lớn nhất vốn nắm khoảng 50% tổng dư nợ của nền kinh tế lại là nơi CAR có thể giảm xuống dưới mức tối thiểu 8% khi Basel II được áp dụng vào năm 2020 (tháng 5/2018, CAR trung bình của các ngân hàng quốc doanh là 9,4%).
"Vốn hóa các ngân hàng quốc doanh, do đó, là một ưu tiên và có thể trở thành một rủi ro hiện hữu khi chúng ta tiến gần tới mốc 2020. Nếu các ngân hàng không thể nâng đủ vốn vào thời điểm đó, Chính phủ có thể phải bơm vốn. Theo tính toán của IMF, việc gia tăng vốn này có thể làm giảm 1 - 1,5% GDP", ông Hải nhấn mạnh.
Ông Hải khuyến nghị, thiếu vốn là một rủi ro gia tăng của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh chiến lược tăng trưởng của Chính phủ do tín dụng dẫn dắt.
Thu hút thêm đầu tư vốn, đặc biệt là từ những nhà đầu tư chiến lược nước ngoài có vai trò quan trọng trong việc gia tăng khả năng an toàn vốn cho các ngân hàng quốc doanh. Tuy nhiên, điều này sẽ đặt ra yêu cầu cấp thiết về cải cách, như cải thiện chất lượng và sự minh bạch của sổ sách kế toán cũng như những biện pháp đảm bảo vĩ mô để tiếp tục giảm nợ xấu và giải tỏa các tài sản thế chấp.
Nhuệ Mẫn
Theo tinnhanhchungkhoan.vn
Ngân hàng nỗ lực tất toán nợ xấu Nghị quyết 42/2017/QH14 về xử lý nợ xấu của Quốc hội đi vào thực tiễn đã tác động tích cực lên quá trình xử lý, thu hồi nợ xấu của các nhà băng. Nhưng sau 5 năm, các khoản nợ xấu đã bán cho VAMC trước đó bắt đầu quay lại ngân hàng nếu chưa được xử lý. Đó cũng là lý do...