Chiến lược và phản ứng của ngân hàng trước sự cạnh tranh từ Fintech
Việt Nam hiện có khoảng 154 công ty Fintech đang hoạt động ở nhiều lĩnh vực khác nhau và chiếm phần lớn trong đó có liên quan đến thanh toán. Điều này gây sức ép không nhỏ lên hoạt động thanh toán ở các ngân hàng. Trước sự cạnh trạnh gia tăng, các ngân hàng và công ty Fintech cần phải làm gì để nâng cao hiệu quả động?
Tại Việt Nam, các ngân hàng có xu hướng hợp tác hơn là đối đầu với các công ty Fintech.
Từ diễn biến trên thị trường quốc tế…
Sự ra đời và phát triển nhanh chóng của các công ty công nghệ tài chính (Fintech) ngày càng tạo ra sức ép đối với các mô hình ngân hàng truyền thống.
Nghiên cứu của Bunea, Kogan & Stoline (2016) đã nêu ra 3 nhiệm vụ mà ngân hàng cần thực hiện để có thể cạnh tranh được với các công ty Fintech.
Thứ nhất, đầu tư vào công nghệ và chuyển đổi mô hình hoạt động nhằm tinh giản bộ máy cồng kềnh và cắt giảm chi phí vận hành.
Thứ hai, thay đổi quy trình cho vay, đồng thời đảm bảo đáp ứng các quy định của cơ quan giám sát đối với hoạt động cho vay.
Hiện tại, ngân hàng thường yêu cầu nhiều thủ tục, giấy tờ và mất nhiều thời gian để xử lý cho vay, trong khi quy trình cho vay và giải ngân của các công ty Fintech đơn giản và nhanh chóng hơn nhiều.
Tuy nhiên, nhiệm vụ này không hề đơn giản và không thể giải quyết một sớm một chiều.
Thứ ba, các ngân hàng cần thời gian và chi phí (chi phí đầu tư và chi phí vận hành) để xây dựng mô hình chấm điểm tín dụng (credit scoring models) thông qua việc sử dụng dữ liệu lớn nhằm tăng tính cạnh tranh.
Theo Vives (2018), chiến lược hành động của các công ty công nghệ tài chính và ngân hàng phụ thuộc vào việc đầu tư sẽ giúp họ tăng khả năng cạnh tranh hay không.
Sản phẩm thay thế hoặc sản phẩm bổ sung sẽ được tạo nên từ sự cạnh tranh giữa ngân hàng và công ty công Fintech.
Khi đó, hành động của đối thủ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các hành động của họ. Vì thế, tùy thuộc vào đặc điểm ngành mà mỗi ngân hàng có thể đưa ra quyết định ủng hộ hay ngăn chặn sự xâm nhập của các công ty công nghệ tài chính.
Nhìn chung, các phản ứng của ngân hàng trước sự xâm nhập thị trường của các công ty Fintech như sau: Không có động thái gì; ngăn chặn sự xâm nhập của công ty Fintech; tự phát triển các sản phẩm Fintech; hợp tác với các công ty Fintech; sáp nhập, thâu tóm các công ty Fintech; sử dụng chiến lược bán chéo, bán hàng theo gói; thành lập ngân hàng số.
… Đến thực tiễn tại Việt Nam
Video đang HOT
Việt Nam hiện có khoảng 154 công ty hoạt động trong mảng Fintech (số liệu tổng hợp của người viết) trong nhiều lĩnh vực khác nhau như thanh toán, gọi vốn cộng đồng, chuỗi khối, quản lý tài chính cá nhân, quản lý POS/mPOS, quản lý dữ liệu, cho vay, so sánh thông tin…
Trong đó, các công ty fintech hoạt động trong mảng thanh toán và ví điện tử dẫn đầu với 37 doanh nghiệp, chiếm 24%; kế đến là mảng cho vay (lending), chiếm 16% với 25 công ty; mảng chuỗi khối, tiền số và chuyển tiền (Blockchain, Crypto & Remittance) với 22 công ty, chiếm 14%. Trong số các công ty Fintech hoạt động ở Việt Nam hiện nay, có khoảng 70% là công ty khởi nghiệp của Việt Nam.
Xu hướng mua bán, sáp nhập các công ty Fintech ở Việt Nam được kỳ vọng sẽ diễn ra mạnh mẽ trong tương lai gần…
Bên cạnh đó, có khá nhiều nhà đầu tư tham gia vào các công ty Fintech đến từ các quốc gia phát triển như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Canada, Úc, Anh, an Mạch, Pháp, Scotland và một số quốc gia lân cận như Singapore, Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia.
Hầu hết các công ty Fintech có sự tham gia của nước ngoài hoạt động tại Việt Nam trải đều tất cả các lĩnh vực, nhưng tập trung nhiều nhất ở các mảng chuỗi khối, tiền số và chuyển tiền (12 nước ngoài, 10 trong nước); phân tích và xếp hạng tín nhiệm (6 nước ngoài, 6 trong nước); thanh toán và ví điện tử (8 nước ngoài, 29 trong nước).
Nhìn chung, ở Việt Nam cũng đang diễn ra xu hướng tương tự như tại các nước trên thế giới, đó là các ngân hàng đang đối mặt tình trạng cạnh tranh của các công ty Fintech ở thị trường bán lẻ đầy tiềm năng, đặc biệt là các sản phẩm cho khách hàng cá nhân – vốn là phân khúc mang lại lợi nhuận cao và ít rủi ro.
Các hình thức cho vay ngang hàng (P2P lending), ví điện tử, tiền ảo, giải pháp thanh toán và trả góp bằng thẻ (MPOS-acquiring), thương mại kỹ thuật số (T-commerce) đã và đang thâm nhập mạnh mẽ vào cuộc sống hàng ngày.
Khách hàng không nhất thiết đến và sử dụng trực tiếp các dịch vụ của ngân hàng, mà họ có thể vay, chi trả các dịch vụ thông qua các ứng dụng của công ty công nghệ tài chính, mà tiêu biểu là Tima (cho vay ngang hàng) và Momo (thanh toán).
Tính đến tháng 9/2019, Tima đã giải ngân với tổng số tiền gần 82.000 tỷ đồng, còn Momo đã tiếp cận được hơn 11 triệu khách hàng và ví điện tử này được chấp nhận thanh toán trên 100.000 điểm giao dịch.
Thực tế ở Việt Nam cho thấy, các ngân hàng đang có xu hướng hợp tác hơn là đối đầu với các công ty Fintech.
Mặc dù phần lớn các công ty Fintech ở Việt Nam đang hoạt động chủ yếu ở mảng thanh toán, nhưng các ngân hàng Việt Nam vẫn đang thực hiện các liên kết với các công ty công ty nghệ tài chính để cung cấp dịch vụ tốt hơn, mang lại sự tiện lợi hơn cho khách hàng và giảm chi phí cho người sử dụng, chẳng hạn quét mã QR Code để thanh toán, thực hiện giao dịch thanh toán thông qua các ví điện tử, liên kết với các hoạt động P2P lending.
Về sự liên kết, với các công ty Fintech, VTPay đang liên kết với 30 ngân hàng, BankGo và Gobear liên kết với 29 ngân hàng, ViettelPay liên kết với 23 ngân hàng, Momo liên kết với 13 ngân hàng…. Về phía các ngân hàng, đứng đầu là Vietcombank liên kết với 30 công ty Fintech; VietinBank, MB là 26 công ty; VIB, Sacombank và VPBank là 25 công ty…
Chiến lược nào cho các ngân hàng ở Việt Nam?
ối mặt với sự phát triển và cạnh tranh của các công ty Fintech, các ngân hàng có thể có các phản ứng như đã trình bày ở trên.
Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, vì khung pháp lý chưa đầy đủ, nên theo người viết, các ngân hàng Việt Nam có thể thực hiện chiến lược tự phát triển kết hợp bán chéo sản phẩm nhằm tăng khả năng cạnh tranh với các công ty Fintech.
Các ngân hàng Việt Nam nên tận dụng mạng lưới, cơ sở hạ tầng sẵn có của mình để kết hợp với khả năng phát triển công nghệ của các công ty Fintech, đẩy mạnh hoạt động thâu tóm thị trường, đón đầu và cạnh tranh… thì mới có thể gây sức ép trở lại cho các công ty Fintech nước ngoài.
Các công ty Fintech của ngân hàng có thể hưởng lợi từ lịch sử hoạt động lâu dài và nền tảng sẵn có của ngân hàng.
ồng thời, các ngân hàng cũng có thể tận dụng nền tảng công nghệ sáng tạo của các công ty Fintech liên kết để phát triển dịch vụ, sản phẩm của mình thông qua việc thuê ngoài một số dịch vụ, hơn là tự phát triển với chi phí đầu tư lớn.
Ngoài ra, trong tương lai, các ngân hàng thương mại Việt Nam còn có thể thực hiện các thương vụ mua bán và sáp nhập với các công ty Fintech. Ngân hàng Việt Nam có lợi thế về mạng lưới, nguồn lực về vốn, cũng như kiểm soát nội bộ chặt chẽ và kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính.
Trong khi đó, các công ty khởi nghiệp Fintech Việt Nam có lợi thế về công nghệ, mô hình kinh doanh sáng tạo và có khả năng phân tích dữ liệu lớn để cung cấp mô hình dự báo chính xác hơn.
Mặt khác, các công ty khởi nghiệp ở Việt Nam nói chung và khởi nghiệp Fintech nói riêng hầu như khó có thể thể bứt phá để trở thành một doanh nghiệp lớn, tồn tại và phát triển độc lập, vì hệ sinh thái số ở Việt Nam hiện nay còn hạn chế.
Theo người viết, xu hướng mua bán, sáp nhập các công ty Fintech ở Việt Nam được kỳ vọng sẽ diễn ra mạnh mẽ trong tương lai gần. Tuy vậy, hoạt động này chỉ có thể diễn ra khi cơ quan quản lý có chính sách và quy định cụ thể.
TS. Lê ức Quang Tú , ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân,
Viện Nghiên cứu phát triển công nghệ ngân hàng, Trường ại học Kinh tế – Luật
Theo tinnhanhchungkhoan
Tín dụng tiêu dùng gặp khó ở các kênh truyền thống
Hiện nay, cho vay mua/sửa nhà, điện tử điện máy và phương tiện đi lại đang là các loại hình có tỷ trọng lớn nhất trong tín dụng tiêu dùng tại Việt Nam. Tuy nhiên, việc mở rộng dư nợ các khoản vay này đang gặp một số khó khăn.
Tín dụng tiêu dùng gặp khó ở các kênh truyền thống
Theo thống kê của công ty nghiên cứu thị trường FiinGroup, dư nợ tín dụng tiêu dùng tăng trung bình tới 66,3%/năm trong giai đoạn 2015-2017, cao hơn nhiều so với mức 20% của 2013-2014. Tăng trưởng của năm 2018 đạt 30,4%, thấp hơn mức 59% trung bình 5 năm trước.
Dù vậy, tín dụng tiêu dùng ngày càng có vai trò quan trọng khi tỷ trọng tín dụng tiêu dùng trong tổng tín dụng cho nền kinh tế đã tăng từ mức 12,3% (năm 2016) lên 17% (năm 2017) và 19,7% (năm 2018). Đây vẫn là mức thấp so với các nước phát triển trên thế giới (40-50%).
Hiện nay, cho vay mua/sửa nhà, điện tử điện máy và phương tiện đi lại đang là các loại hình có tỷ trọng lớn nhất trong tín dụng tiêu dùng tại Việt Nam. Tuy nhiên, báo cáo mới đây của Công ty Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) nhận định, việc mở rộng dư nợ các khoản vay này đang gặp một số khó khăn.
Thứ nhất, theo VDSC, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có động thái siết chặt hơn đối với cho vay mua nhà.
Cụ thể, trước đây hệ số rủi ro với các khoản vay cá nhân bảo đảm bằng bất động sản cố định ở mức 50%, tuy nhiên theo quy định tại Thông tư 41, hệ số rủi ro sẽ thay đổi trong khoảng 25-200% tùy thuộc Tỷ lệ bảo đảm (Số dư khoản phải đòi/Giá trị tài sản bảo đảm) và Tỷ lệ thu nhập (Số dư phải hoàn trả trong năm/Tổng thu nhập trong năm của khách hàng).
Đối với các tổ chức chưa đáp ứng được Thông tư 41, NHNN dự định ban hành Thông tư 36 sửa đổi, trong đó nâng hệ số rủi ro đối với các khoản vay đảm bảo bằng BĐS có dư nợ gốc trên 1,5 tỷ lên 100-150%.
Đồng thời, NHNN cũng đang lấy ý kiến dự thảo quy định giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn tối đa cho phép xuống 30% trong vòng 3 năm tới. Các động thái này về cơ bản dự kiến sẽ khiến vay mua nhà bị ảnh hưởng từ đó ảnh hưởng đến tín dụng tiêu dùng nói chung.
Thứ hai, các khoản vay khác như phương tiện đi lại và điện tử, điện máy cũng chiếm tỷ trọng cao do các ngân hàng và công ty tài chính tiêu dùng đang tiếp cận khách hàng chủ yếu thông qua các kênh bán lẻ hiện đại theo chuỗi hoặc thương mại điện tử, vốn đem lại hiệu quả cao và giúp tiết kiệm được chi phí quản lý.
Tuy nhiên, VDSC cho rằng sự có mặt của họ tại các kênh chuỗi đang trở nên dày đặc, trong khi nhu cầu tiêu thụ xe máy, điện thoại, điện máy đang dần bão hòa.
Công ty chứng khoán này dẫn dữ liệu của Euromonitor rằng doanh số hàng điện tử, điện máy năm 2018 giảm còn 11% so với mức bình quân 13,9% trong 5 năm trước.
Ngoài ra, VAMM (Hiệp hội các nhà sản xuất xe máy Việt Nam) cũng ghi nhận mức tăng trưởng số lượng xe máy tiêu thụ chậm lại trong hai năm qua và thậm chí trong quý I vừa rồi còn có tăng trưởng âm so với cùng kỳ.
Trong khi đó, cho vay bằng tiền mặt dự kiến cũng sẽ bị hạn chế khi các cơ quan quản lý đang có ý định siết chặt hơn giải ngân trực tiếp cho khách hàng.
"Do vậy, việc mở rộng dư nợ tín dụng tiêu dùng nói chung sẽ trở nên khó khăn hơn so với giai đoạn trước", VDSC đánh giá.
Sự có mặt của các công ty tài chính tiêu dùng tại các chuỗi bán lẻ đang trở nên dày đặc, trong khi nhu cầu tiêu thụ xe máy, điện thoại, điện máy đang dần bão hòa.
Khi các tổ chức tín dụng tập trung đáp ứng các nhu cầu vay mua/sửa nhà, điện tử điện máy và phương tiện đi lại, vốn là các phân khúc có nhu cầu lớn, dễ tiếp cận, thì mức độ cạnh tranh sẽ ngày càng trở nên gay gắt do sự tham gia của nhiều đối thủ.
Do đó, VDSC cho rằng để khai thác tốt hơn xu hướng sắp tới của tín dụng tiêu dùng, cũng như thích ứng với định hướng quản lý của cơ quan nhà nước, các ngân hàng và công ty tài chính tiêu dùng sẽ cần có các phương thức tiếp cận mới.
Cụ thể, về sản phẩm, các nhu cầu tiêu dùng khác cũng cần được tập trung đáp ứng, như mua sắm, du lịch, làm đẹp, nội thất, giải trí, bảo hiểm. Theo đó, các ngân hàng và công ty tài chính tiêu dùng cần đa dạng hóa danh mục sản phẩm của mình để tiếp cận gần hơn đến các nhu cầu đa dạng, cụ thể của khách hàng.
"Về đối tượng khách hàng, do tài chính toàn diện đang là mối quan tâm của các cơ quan quản lý, các tổ chức tín dụng cần chú trọng hơn đến các phân khúc chưa được tiếp cận dịch vụ tài chính như đối tượng thu nhập thấp, vùng sâu vùng xa, vượt qua các kênh truyền thống phổ biến như trước đây", VDSC khuyến nghị.
Công ty chứng khoán này cho hay theo nghiên cứu từ kinh nghiệm quốc tế, các ngân hàng và công ty tài chính tiêu dùng nên phát triển dịch vụ ngân hàng đại lý để mở rộng mạng lưới và hợp tác với các công ty viễn thông và công ty Fintech trong việc tiếp cận đến các phân khúc còn đang bỏ ngỏ này.
Minh Tâm
Theo vietnamfinance.vn
Ngân hàng Nhà nước khuyến khích phát triển ngân hàng số Ngân hàng Nhà nước khuyến khích các tổ chức tín dụng hợp tác với các công ty công nghệ tài chính tận dụng các thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0 để mang lại lợi ích cho các bên. Ngân hàng số là tương lại tất yếu của ngành ngân hàng. Ảnh minh họa: TTXVN Hệ thống tiền tệ, ngân hàng và...