Chiếc trống có chữ khắc duy nhất trong thành Cổ Loa
Mặt trong chân trống Cổ Loa có khắc chìm dòng chữ Hán, được dịch là ‘Trống thứ 48 của bộ Tây Vu, nặng hai trăm tám mươi mốt cân’.
Trong số bảo vật quốc gia Bảo tàng Hà Nội đang lưu giữ, trống Cổ Loa thuộc hàng quý hiếm bởi kích thước lớn, hoa văn trang trí trên mặt và thân cầu kỳ. Trống được phát hiện ngày 21/6/1982 khi nhóm thanh niên giúp gia đình ông Tái Kim Quang, xóm Chợ, xã Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) hạ thấp thửa ruộng ở khu Mả Tre.
Trống đồng Cổ Loa có niên đại 2000-2.500 năm thuộc thời kỳ văn hóa Đông Sơn. Ảnh: Phương Hòa.
Chiếc trống nằm ngửa, chứa trong lòng 3 trống đồng bé hơn chỉ còn những mảnh nhỏ cùng hơn 200 hiện vật bằng đồng gồm lưỡi cày, rìu đồng, mũi tên đồng có niên đại trên 2.000 năm. Bộ sưu tập lưỡi cày đồng gồm 20 chiếc, chủ yếu có 3 kiểu chính là lưỡi cày hình tim, hình bầu dục và gần hình tròn. Trải qua hàng nghìn năm tuổi, những chiếc lưỡi cày màu xanh rỉ đồng có niên đại từ thời kỳ văn hóa Đông Sơn cách đây 2.000-2.500 năm đã bị sứt mẻ, cong vênh phần nào.
Sau khi phát hiện, UBND xã Cổ Loa đã cùng Sở Văn hóa Hà Nội khảo sát lại nơi phát hiện và tổ chức nhiều đợt thu hồi hiện vật. Do tìm thấy ngẫu nhiên nên khu vực quanh chiếc trống nằm đã bị đào bới lộn xộn, các nhà khoa học không thể nghiên cứu được mối quan hệ giữa trống và lớp gốm Cổ Loa cũng như thứ tự sắp xếp các hiện vật ban đầu. Tháng 12/2015, trống Cổ Loa cùng 20 lưỡi cày đồng được công nhận bảo vật quốc gia.
Thuộc nhóm trống đồng Đông Sơn đẹp nhất, cổ nhất hiện nay ở Việt Nam, trống Cổ Loa xếp cùng nhóm với những chiếc trống bảo vật quốc gia khác như Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Sông Đà. Dù hoa văn trang trí trên trống Cổ Loa ít và giản đơn hơn nhưng họa tiết đặc trưng, không trùng lặp với hàng trăm chiếc trống đã phát hiện trước đó và sau này.
Chính giữa mặt trống là hình ngôi sao nổi 14 cánh, trang trí họa tiết lông công xen giữa các cánh. Băng hoa văn số 6 chia thành hai nửa giống nhau, mỗi nửa đều có khắc họa hình người hóa trang, mái nhà cong hình thuyền có chim đậu trên nóc, trong nhà có một cặp nam nữ ngồi đối diện nhau. Một đầu nhà có hình trống đồng đặt nghiêng, đầu kia có người ngồi co gối đánh trống, phản ánh lễ hội cầu mùa của cư dân nông nghiệp.
Video đang HOT
Chính giữa mặt trống là hình ngôi sao 14 cánh và 15 băng hoa văn trang trí tinh xảo tính từ tâm. Ảnh: Phương Hòa.
Đặc biệt, đây là chiếc trống đầu tiên có minh văn (chữ khắc) được tìm thấy trong thành Cổ Loa. Mặt trong chân trống có khắc chìm một dòng chữ Hán, được phiên âm là “Tây Vu tập bát cổ, trọng lưỡng cá bách bát thập nhất cân”. Dịch là “Trống thứ 48 của bộ Tây Vu, nặng hai trăm tám mươi mốt cân” (khoảng 72 kg).
Theo TS Nguyễn Việt, Giám đốc Trung tâm tiền sử Đông Nam Á thì chữ Tây Vu là cách ghi biến âm của Tây Âu, nhóm tộc người mà tương truyền Thục Phán An Dương Vương làm thủ lĩnh đã liên kết với Lạc Việt – Văn Lang của các vua Hùng thành nhà nước Âu Lạc ở cuối thế kỷ 3 trước công nguyên. Việc phát hiện trống Tây Vu trong thành Cổ Loa của An Dương Vương chứa đầy vũ khí và đồ đồng Đông Sơn của những người Tây Âu – Lạc Việt cũng là điều hợp lý.
Trống Cổ Loa cũng là chiếc đầu tiên có minh văn ở Việt Nam được tìm thấy trong khu vực thành Cổ Loa. Đây từng là kinh đô của nhà nước Âu Lạc dưới thời An Dương Vương (thế kỷ 3 trước công nguyên) và của nước Đại Việt dưới thời Ngô Quyền (thế kỷ 10). Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là tòa thành cổ nhất, quy mô lớn bậc nhất, cấu trúc thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ. Mả Tre vốn là khu nghĩa địa nằm ở phía Tây Nam của cửa Nam thành Cổ Loa. Nhiều nhà nghiên cứu đi đến giả thuyết rằng Mả Tre có thể là kho chôn giấu tài sản trước biến động lớn trong xã hội hàng nghìn năm trước.
Ngoài trống đồng và các lưỡi cày đồng, Cổ Loa còn có hàng loạt di chỉ khảo cổ được phát hiện, phản ánh thời kỳ phát triển liên tục của dân tộc Việt từ sơ khai qua đồ đá, đồ đồng và đồ sắt mà đỉnh cao là văn hóa Đông Sơn, vẫn được coi là nền văn minh sông Hồng thời kỳ tiền sử của dân tộc Việt Nam.
Những lưỡi cày đồng được phát hiện cùng với trống Cổ Loa. Ảnh: Phương Hòa.
PGS.TS Tống Trung Tín, Chủ tịch Hội Khảo cổ học đánh giá, trống đồng Cổ Loa cùng bộ sưu tập lưỡi cày đồng là nguồn sử liệu bằng vật chất, phác họa phần nào cuộc sống sinh hoạt và trình độ khoa học của người Việt cổ cách đây hơn 2.000 năm, dưới thời kỳ nhà nước Âu Lạc mà trung tâm là kinh đô Cổ Loa. Từ công cụ sản xuất như lưỡi cày đồng, đến nhạc khí như trống đồng, hay mũi tên đồng để chiến đấu, phòng vệ, tất cả cho thấy sự hoàn hảo của kỹ thuật đúc đồng thời đó.
“Những hoa văn trang trí hình người, hình thuyền trên chiếc trống Cổ Loa cũng cho thấy thẩm mỹ của cư dân Đông Sơn rất cao, đời sống tinh thần phong phú. Chiếc trống được tìm thấy thuộc loại đẹp nhất, lớn nhất trong số trống đồng thời kỳ đông Sơn nên có thể tin tưởng rằng nó là của quý tộc. Nhưng ai là chủ sở hữu thì vẫn còn là một câu hỏi cần nghiên cứu thêm”, PGS Tín cho hay.
Phương Hòa
Theo VNE
Chuông bảo vật hé lộ lịch sử hơn 1.000 năm trước
Trên thân chiếc chuông đồng cổ nhất Việt Nam có nhắc đến nhiều địa danh và chức tước, là tư liệu quý hé lộ bức tranh lịch sử xã hội người Việt thời kỳ tiền độc lập tự chủ hơn nghìn năm trước.
Trong gian trưng bày tầng 1 của Bảo tàng Hà Nội, chuông Thanh Mai được đặt ở vị trí trang trọng, là hiện vật đầu tiên nhìn thấy khi bước vào phòng. Chuông đồng được nhân dân thôn My Dương, xã Thanh Mai (Thanh Oai, Hà Nội) phát hiện trên cánh đồng năm 1986. Thấy hiện vật còn nguyên vẹn, khắc chữ cổ tinh xảo nên người dân báo chính quyền, đưa về Bảo tàng Hà Tây (cũ), sau đó chuyển về Bảo tàng Hà Nội. Cái tên Thanh Mai - nơi phát hiện được dùng để đặt tên cho cổ vật.
Chuông Thanh Mai được coi là đỉnh cao nghệ thuật đúc đồng thời bấy giờ. Ảnh: Hoàng Phương.
Năm 2006, chuông Thanh Mai được công nhận là chuông đồng cổ nhất Việt Nam do Giáo hội Phật giáo TP HCM và Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam công bố, được công nhận bảo vật quốc gia tháng 1/2015. Cho đến nay, cổ vật độc bản này được xem là co niên đai sơm nhât đươc phat hiên ơ Viêt Nam (năm 798).
Chuông có hình dáng và minh văn độc đáo, không giống với bất cứ chuông nào trong hệ thống chuông chùa ở Việt Nam. Quai đúc nổi đôi rồng, đấu lưng vào nhau, uốn cong một cách khéo léo tạo thành núm treo chuông. Hình rồng không vảy, đầu to, không bờm, miệng ngậm tỳ xuống đỉnh chuông. Con rồng này có nét tương đồng với hình tượng rồng khắc trên bia đá cổ nhất Việt Nam là bia Trường Xuân (Thanh Hóa), năm 618.
Thân chuông Thanh Mai có bài minh văn bằng chữ Hán gồm 1530 chữ, khắc kín trong 8 ô. Mở đầu là dòng niên đại quả chuông, rồi đến tên 53 người góp tiền và họ tên những người đúc chuông. Bài minh văn cho biết chuông do hội Tuỳ Hỉ (một tổ chức của Phật giáo) gồm những người Hoa và người Việt đúc. Các đệ tử nhà Phật mong muốn tiếng chuông vang lên được trời, đất, thần, Phật chứng giám cho chúng sinh và tiêu trừ hết khổ nạn. Phật pháp được lưu danh muôn đời.
Các nhà nghiên cứu cũng xác định văn bản trên thân chuông được khắc cùng một thời điểm và khắc lần đầu, không có hiện tượng khắc lại hoặc khắc thêm xen kẽ về sau. Niên đại của văn bản khắc trên thân chuông và niên đại của chuông là một, hoàn toàn phù hợp với dòng lạc khoản tuyệt đối trên chuông là: ngày 20 tháng 3 năm Mậu Dần, niên hiệu Trinh Nguyên 14 (tức năm 798).
Ngoài giá trị độc bản, chuông Thanh Mai còn hé lộ bức tranh lịch sử hơn 1.000 năm trước khi nhắc đến nhiều địa danh và chức tước phổ biến thời kỳ tiền độc lập tự chủ. Bài minh văn có nhắc đến các địa danh hành chính như 4 huyện An Lạc, Văn Dương, Hán Hội, Nhật Nam; 18 châu: Tư Lăng, Nghi, Tấm, Trường, Văn, Vi, Tuy, Diêm, Quý, Kinh, Sóc, Thạch, Từ, Hạ, Ngạn, Ái, Tây Bình, Liễu; 12 phủ: Vạn Cát, An Lạc, Long Sơn, Âm Bình, Dung Sơn, Thượng Đức, Tứ Môn, Đại Bân, Ly Thạch, Cát Xương, Hạ Tập, Nghĩa Vương.
Ngoài ra nội dung minh văn còn nhắc đến nhiều các chức danh quan lại như: Huyện úy, Tả kim ngô vệ, Chiết xung đô úy, Phán quan, Thượng trụ quốc, Kinh lược tiên phong binh mã sứ, Thứ sử, Triều nghị lang, Du dịch sứ... Lần đầu tiên thấy xuất hiện đơn vị đo lường khối lượng của người Việt "90 cân Nam". Một cân Nam = 0,4 kg hiện nay. Tức quả chuông nặng khoảng 36 kg. Điều này góp phần chứng minh cho việc chiếc chuông được đúc trên đất Việt và được lưu truyền, sử dụng trên đất Việt.
Phần phiên âm và bản dịch bài kệ khắc trên thân chuông, đại ý góp công đức đúc chuông này, các đệ tử nhà Phật mong muốn tiếng chuông vang lên được trời đất, thần, phật chứng giám cho chúng sinh, tiêu trừ khổ nạn. Ảnh chụp lại.
PGS.TS Đinh Khắc Thuân, chuyên gia viện Hán Nôm, người từng nghiên cứu về chiếc chuông này đánh giá, chuông Thanh Mai đẹp, có giá trị mỹ thuật và lịch sử cao. Đây là chiếc chuông đồng của người Việt, được phát hiện trong lòng đất ven sông Hồng thuộc huyện Thanh Oai, TP Hà Nội ngày nay, vốn là trung tâm dân cư người Việt sinh sống khi đó. Đây cũng là quả chuông đồng đầu tiên có văn tự được tìm thấy cho đến nay, niên đại từ thế kỷ 8, chứa đựng nhiều thông tin quan trọng cho biết hoạt động, ảnh hưởng của Phật giáo và sự giao lưu văn hóa, xã hội Việt Nam trước thời kỳ độc lập tự chủ. Sau này, chiếc chuông Nhật Tảo được phát hiện năm 1987 cũng coi như là cổ vật quý hiếm nhưng ít chữ hơn, được đúc muộn hơn so với chuông Thanh Mai khoảng hơn 100 năm.
Về giá trị lịch sử, PGS Thuân phân tích, bài minh văn khắc kín 4 mặt trên thân chuông là tài liệu sớm và chính xác, có độ tin cậy cao. Đa số tài liệu ra đời vào giai đoạn này qua thời gian bị mất mát, nếu còn thì thường chỉ là các bản sao chép có nhiều sai lệch. Bài minh văn còn nguyên vẹn, chưa hề có dấu hiệu sửa chữa và hoa văn trên thân chuông là tư liệu gốc quý giá. Các nhà nghiên cứu có thể khai thác được nhiều thông tin về lịch sử, xã hội, tộc người, mỹ thuật, phong tục tập quán và trình độ phát triển của Phật giáo cũng như các mối quan hệ xã hội thời kỳ đó qua tư liệu này.
Những tên người, chức tước, quê quán xuất hiện trong bài minh văn cho thấy sự giao lưu văn hóa giữa người phương Bắc với người phương Nam. Hội Tùy Hỷ là tổ chức xã hội của những người tôn sùng Phật giáo, lại có địa vị xã hội nhất định. Những chức danh như Huyện úy, Tả kim ngô vệ... là chức quan của người phương Bắc, khi đó đang sinh sống ở đây.
Việc công đức đúc chuông và nội dung bài kệ cũng cho thấy trình độ phát triển rực rỡ của Phật giáo thời kỳ này, ảnh hưởng đến một vùng rộng lớn trong đó có Việt Nam. "Trải qua hàng nghìn năm, chiếc chuông không bị hoen gỉ mà vẫn giữ nguyên được hình dáng, màu sắc ban đầu cho thấy kỹ thuật đúc đồng đỉnh cao của thời kỳ này. Song có sự giao thoa, ảnh hưởng văn hóa nên một số chi tiết trên thân chuông bị ảnh hưởng của phong cách Trung Hoa. Đặc biệt dáng chuông hình trụ, thẳng đứng là phong cách đậm chất Tùy Đường. Những chiếc chuông được đúc sau này thường có dáng thấp, miệng loe", ông nói.
Hoàng Phương
Theo VNE
Hồ Gươm hơn 100 năm trước Bên hồ Gươm xưa kia từng tồn tại ngôi chùa Báo Ân bề thế vào loại bậc nhất Hà thành, nhưng đã bị phá, chỉ còn sót lại tháp Hòa Phong ở phía đường Đinh Tiên Hoàng ngày nay. Bảo tàng Hà Nội đang dành một góc nhỏ tập hợp những bức ảnh có chủ đề Hà Nội xưa, nổi bật là một...