Chạy đua tăng lãi suất huy động trung, dài hạn: Lãi vay liệu có tăng theo?
Các ngân hàng hiện phải chấp nhận lợi nhuận thấp hơn, vì nếu tăng lãi suất đầu ra thì các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn và không vay vốn nữa.
Ảnh: TL
Không chỉ riêng cuộc đua phát hành chứng chỉ tiền gửi lãi suất cao mà hiện nay mặt bằng lãi suất huy động kỳ hạn trung và dài hạn tại các ngân hàng cũng có dấu hiệu nóng trở lại. Ghi nhận tại 1 số ngân hàng cho thấy mức tăng từ kỳ hạn 6 tháng trở lên, tăng 0,1 – 0,8 điểm % tùy từng kỳ hạn và từng ngân hàng.
Chẳng hạn như tại ABBank vào giữa tháng 8/2019 đã thông báo tăng lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 6 tháng lên 7,5%/năm và 12 tháng là 8,5%/năm, lần lượt tăng 0,7% và 0,8% so với mức lãi suất cũ. Tương tự, SHB cũng điều chỉnh lãi suất cao nhất của ngân hàng lên mức 8,2%/năm, áp dụng với tất cả khoản tiền gửi kỳ hạn 13 tháng. Lãi suất kỳ hạn sáu tháng cũng được đẩy từ 7% lên đến 7,8%/năm, kỳ hạn chín tháng, 12 tháng lần lượt là 8%/năm, 8,1%/năm. Trước đó, lãi suất cao nhất của ngân hàng này chỉ ở mức 7,2%/năm. OCB cũng công bố biểu lãi suất áp dụng từ ngày 12-8 với lãi suất gửi tiết kiệm cao nhất tại quầy là 8%/năm, áp dụng với kỳ hạn 36 tháng. So với biểu lãi suất trước đó, tỉ lệ này đã tăng 0,3 điểm %.
Không riêng các ngân hàng thương mại mà 2 ông lớn trong nhóm big 4 là BIDV và VietinBank cũng nhập cuộc. Dù điểm % không tăng cao nhưng cũng không đứng ngoài cuộc đua lãi suất huy động trung và dài hạn khi niêm yết lãi suất tiền gửi 12 tháng ở mức 7%/năm, tăng 0,1-0,2 điểm % so với trước đó.
Một điểm dễ nhận thấy là mặc dù thanh khoản ở các ngân hàng hiện nay dồi dào nhưng thực chất vẫn là vốn tạm thời nhàn rỗi ngắn hạn, trong khi tỷ lệ vốn cho vay trung và dài hạn vẫn còn ở mức cao. Theo kết quả một khảo sát báo cáo tài chính của 20 ngân hàng trong quý I/2019 cho thấy tỷ lệ này chiếm tới 54,68%. Sự mất cân đối về nguồn vốn vay khiến các ngân hàng phải tăng lãi suất tiền gửi trung và dài hạn nhằm thu hút tiền nhàn rỗi ở kỳ hạn dài để đảm bảo an toàn trong cho vay.
Tuy nhiên, ở chiều ngược lại thì lãi suất cho vay trung và dài hạn hiện nay vẫn giữ ổn định, chưa có dấu hiệu tăng. Ghi nhận từ 1 số doanh nghiệp cho thấy mức lãi suất cho vay hiện nay vẫn được giữ ổn định. Cụ thể cho vay ngắn hạn ở mức 7-8%, vay trung và dài hạn xoay quanh mức 10-12%; còn với những doanh nghiệp tốt hơn thì mức lãi vay có thể thấp hơn 0,5- 1,5% tùy từng kỳ hạn và mức độ tín nhiệm của từng doanh nghiệp. Lãi suất huy động tăng trong khi lãi vay vẫn giữ nguyên sẽ gây áp lực lên chi phí vốn cho các ngân hàng dẫn đến việc lợi nhuận cũng sẽ giảm theo.
Video đang HOT
Ví dụ, với 1 khoản tiết kiệm 500 triệu ngân hàng huy động từ dân cư với mức lãi suất 8,5% cho kỳ hạn 12 tháng thì lãi cuối kỳ ngân hàng phải trả tương ứng 42,5 triệu. Trong khi đem 500 cho vay với cùng kỳ hạn 12 tháng với lãi suất đầu ra là 11% thì lãi ngân hàng nhận được là 55 triệu. Như vậy lợi nhuân ngân hàng nhận được là 12,5 triệu. Đây là mức lợi nhuận khá thấp khi ngân hàng phải chi trả hàng loạt các khoản phí hoạt động.
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu cho biết việc giảm lợi nhuận là điều tất yếu mà các ngân hàng phải chấp nhận trong thời điểm hiện nay. Bởi nếu tăng lãi suất đầu ra thì các doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn, và có khả năng sẽ không vay vốn dẫn đến việc ngân hàng sẽ mất khách hàng. Thế nhưng, khi chi phí vốn tiếp tục tăng, cộng với nhiều khoản chi phí khác cũng nhiều khả năng tăng theo như: lương, thưởng, chi phí marketing….thì mức lợi nhuận ngân hàng sẽ ngày càng co hẹp theo. Và theo dự báo của ông Hiếu, thì mặt bằng lãi vay sẽ khó giữ vững bởi ngân hàng phải duy trì NIM lợi nhuận từ 2,5 – 3%.
Chuyên gia kinh tế Cấn Văn lực cho biết hiện nay cuộc đua tăng lãi suất huy động chỉ mới diễn ra trong phạm vi nhỏ, mang tính cục bộ chứ chưa hẳn là cuộc đua toàn hệ thống. Tuy nhiên, vị chuyên gia này cũng cảnh báo nếu không có sự kiểm soát chặt chẽ từ các cơ quan nhà nước thì nhiều khả năng lãi suất huy động vẫn tiếp tục tăng trong thời gian tới dẫn đến các ngân hàng khác cũng buộc phải xem xét nâng lãi suất theo. Và khi lãi suất huy động tăng ở mức khó kiểm soát thì mặt bằng lãi vay sẽ khó giữ ổn định.
Mới đây, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa phát đi văn bản cảnh báo các tổ chức tín dụng đã điều chỉnh lãi suất tiền gửi bằng VND nhanh và mạnh ở một số kỳ hạn hoặc triển khai các sản phẩm chứng chỉ tiền gửi với mức lãi suất cao. Và sắp tới đây, NHNN sẽ theo dõi sát việc triển khai giải pháp về lãi suất và tín dụng của các tổ chức tín dụng và sẽ xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm quy định của pháp luật và chỉ đạo của NHNN, trong đó gồm cả biện pháp thu hẹp chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng của tổ chức ngân hàng vi phạm.
Đồng tình với động thái nói trên của NHNN, song chuyên gia Nguyễn Trí Hiếu cho biết thêm việc chạy đua tăng lãi suất huy động hiện nay của các ngân hàng không phải do yếu tố thiếu thanh khoản mà vì các ngân hàng đang thừa vốn ngắn hạn, trong khi cho vay ra chủ yếu ở kỳ hạn trung và dài hạn. Vì thế, nhằm đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn này theo quy định của NHNN thì các ngân hàng buộc phải dùng nhiều cách để huy động nguồn vốn dài hạn. Vì thế, cơ quan quản lý cần nhiều hơn các biện pháp hành chính để kiểm soát cuộc đua lãi suất. Bởi quy định hiện nay về trần lãi suất huy động 5,5% chỉ áp dụng cho kỳ hạn 6 tháng trở xuống, còn với các kỳ hạn dài hơn thì do ngân hàng và khách hàng thỏa thuận.
Theo nhipcaudautu.vn
Đừng kỳ vọng giảm lãi suất
Trao đổi với ĐTTC trong số báo trước, TS. Trương Văn Phước, thành viên tổ tư vấn kinh tế Thủ tướng Chính phủ, đã dự báo trước về việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) giảm lãi suất đồng USD. Song nếu FED giảm lãi suất, nhưng so với năm 2016-2017, lãi suất đồng USD cũng đã tăng rất nhiều, khoảng 2%. Đó cũng là điều tốt cho Việt Nam dưới góc độ điều hành chính sách tiền tệ, bởi không chịu áp lực nhiều về mất giá tiền đồng. Còn ở góc độ lãi suất, đây không phải là tác nhân ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất huy động và cho vay tại Việt Nam.
Như vậy việc một số ngân hàng thương mại (NHTM) trong nước, chủ yếu là các NHTM có vốn nhà nước đồng loạt giảm lãi suất không đến từ nguyên nhân FED giảm lãi suất 0,25% trong tuần qua.
Nhìn lại trước đây, các đợt giảm lãi suất cho vay đồng loạt của các NHTM đều xuất phát từ sự khuyến khích của Chính phủ và NHNN, và cũng chỉ giảm cho các nhóm ngành ưu tiên. Lần giảm lãi suất này cũng vậy, các NH điều chỉnh giảm với điều kiện doanh nghiệp (DN) hoạt động trong các lĩnh vực ưu tiên và DN khởi nghiệp. Thời hạn giảm lãi suất áp dụng đến cuối năm 2019.
Thực chất so với mặt bằng chung, nhóm DN ưu tiên nếu đã tiếp cận được vốn thì lãi suất cho vay hiện nay cũng không cao, chỉ 6%/năm cho ngắn hạn. Nay thêm ưu đãi giảm 0,5% nữa cũng không nhiều DN ưu tiên vay do thời han cũng chỉ hết năm 2019.
Hơn nữa, với nhóm DN nằm trong lĩnh vực ưu tiên thường thiếu tài sản đảm bảo để vay vốn, nên lãi suất có giảm thêm cũng không có nhiều tác động. Nói như một chủ tịch Hiệp hội DN quận, điều DN mong muốn hiện nay không phải là giảm lãi suất bao nhiêu, mà làm cách nào để tiếp cận được vốn, bởi còn có rất nhiều DN cần vốn nhưng chưa được hỗ trợ vay.
Thanh khoản giữa các nhà băng hiện vẫn đang phân hóa mạnh, dẫn đến lãi suất huy động sẽ tiếp tục neo ở mức cao. Như vậy mặt bằng lãi suất khó có thể thiết lập được mặt bằng lãi suất mới thấp hơn.
Trên bình diện chung, giữa tháng 7 vừa qua, NHNN cắt giảm 0,25% lãi suất tín phiếu, từ mức 3% về mức 2,75%. Động thái này đồng nghĩa với việc NHNN khuyến khích các NHTM giảm mua tín phiếu lãi suất thấp, dồn vốn cho vay. Mặc dù về lý thuyết điều này có thể làm cho lượng vốn dồi dào hơn, có tác động phần nào cho việc giảm lãi vay.
Nhưng nên biết, điều hành chính sách tiền tệ tại Việt Nam chủ yếu dựa trên tăng trưởng cung tiền và trần tăng trưởng tín dụng, thay vì điều hành gián tiếp qua lãi suất. Đồng thời, cơ chế lan truyền từ lãi suất liên NH ngắn hạn đến lãi suất cho vay trên thị trường cũng rất hạn chế.
Việc lãi suất liên NH ở mức thấp thể hiện thanh khoản hệ thống dư thừa, song diễn biến này không đại diện cho toàn bộ hệ thống. Bằng chứng là thanh khoản giữa các nhà băng hiện vẫn đang phân hóa mạnh, dẫn đến lãi suất huy động sẽ tiếp tục neo ở mức cao. Với các diễn biến hiện tại, mặt bằng lãi suất ở Việt Nam khó có thể thiết lập được mặt bằng lãi suất mới thấp hơn.
Và nếu FED tiếp tục giảm lãi suất, dòng tiền đầu tư cũng sẽ không thể chuyển hướng nhanh từ Mỹ ra các nước bên ngoài, nên trước mắt vẫn chưa thể kỳ vọng vốn chảy vào Việt Nam để hỗ trợ nhu cầu vốn trên thị trường thay cho vốn NH. Trong khi đó, tỷ lệ lãi cận biên (NIM) của toàn ngành trong năm 2019 được dự báo ở mức khoảng 3,2%, thậm chí một số NH sẽ gặp áp lực giảm NIM do tỷ lệ cho vay/huy động (LDR) ở mức cao, nên khó có thể kéo giảm thêm. Hiện các NHTM Việt Nam vẫn chưa dừng cuộc đua tăng lãi suất huy động, vì cần cân đối tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn theo yêu cầu của NHNN.
Về vĩ mô, lạm phát cơ bản bình quân 6 tháng đầu năm tăng 1,87% so với bình quân cùng kỳ năm 2018. Thế nhưng, việc gia tăng đều giá nhóm hàng như giáo dục, lương thực, thực phẩm (do dịch tả lợn châu Phi cùng với giá nhiên liệu biến động) bất ổn, khiến lạm phát tiềm ẩn nhiều nguy cơ tăng cao trong thời gian tới.
Đứng trước dự báo lạm phát tăng, lãi suất đầu vào cũng khó giảm thêm, bởi còn phải đảm bảo thực dương mới thu hút được người gửi tiền. Ở Việt Nam, lãi suất đầu ra lại chỉ có thể giảm được nếu lãi suất đầu vào giảm. NH huy động vốn 7-8%/năm, đương nhiên sẽ tìm khách hàng chấp nhận vay với lãi suất 11-12%/năm trở lên, thay vì đến với khách hàng ưu tiên vay lãi suất 5-6%/năm, trừ trường hợp đó là khách hàng lớn có dòng tiền ra vào NH mỗi ngày ở mức cao.
Dự báo cho cả năm khi NHNN khống chế tăng trưởng tín dụng ở mức 14% cũng sẽ khống chế M2 ở mức bằng hoặc thấp hơn, như vậy lãi suất căn bản cũng sẽ được giữ ổn định. Năm 2020, tác động mạnh mẽ hơn từ thị trường tài chính toàn cầu sẽ có những biến động nhưng cũng không đáng kể. Như vậy, lãi suất cho vay vẫn khó giảm trên mặt bằng chung.
Trở lại với chính sách giảm lãi suất nói trên, thực ra các NH hưởng ứng kêu gọi của Chính phủ, nhưng thực chất Chính phủ chỉ đề ra chính sách hỗ trợ cho những ngành trọng điểm, không thể đi sâu từng chi tiết, từng loại DN, từng khách hàng, còn mỗi NH có chính sách dành cho khách hàng của mình. Chính sách của Chính phủ hướng đến quá nhiều đối tượng, nhiều lĩnh vực rồi dùng NH làm công cụ hỗ trợ DN, nên tác động cũng sẽ không lớn.
NH là người kinh doanh ngoại tệ, có trách nhiệm phải trả lại cho người gửi, không thể gánh chịu rủi ro do chính sách mang lại mà cân đối theo khả năng và phê duyệt vay theo thẩm định của họ. Chỉ khi nào chính sách của Chính phủ thực hiện bằng tiền của Chính phủ, các đối tượng ưu tiên mới có thể hưởng được chính sách ưu tiên thực sự. Do vậy, giảm lãi suất cho vay là một phong trào được các NH hưởng ứng, nhưng không phải ai cũng được hưởng nếu không đáp ứng được yêu cầu của NH.
YÊN LAM
Theo saigondautu.com.vn
Lãi suất VND khó hạ nhiệt Trong khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) không tăng lãi suất USD từ đầu năm đến nay và khả năng sẽ sớm giảm lãi suất USD trong thời gian tới, thì ở thị trường Việt Nam, lãi suất huy động VND tiếp tục tăng. Lãi suất VND tiếp tục tăng, nhất là ở kỳ hạn dài là do các ngân hàng...