Cây thuốc và vị thuốc cổ truyền dùng phòng và hỗ trợ điều trị SARS-CoV-2
Để chủ động tăng cường các biện pháp phòng, chống COVID-19, ngay 17.3.2020 Bộ Y tế đã ban hành công văn số 1306/BYT-YDCT hướng dẫn sử dụng thuốc cổ truyền, phương pháp y học cổ truyền trong phòng và hỗ trợ điều trị; huy đông moi nguôn lưc, xây dựng và triển khai các kế hoạch hành động quyết liệt nhằm mục tiêu ngăn chặn và đẩy lùi được đại dịch này.
Cây rau mui. Anh: Viên Dươc liêu
Trong chăm soc sưc khoe ban đâu, có tơi trên 80% dân số thế giới sử dụng thuốc có nguồn gốc từ cây co. Ơ Việt Nam, nguồn tài nguyên dược liệu rất phong phú và đa dạng. Chi riêng thưc vât va nâm lơn đa lên tơi 5.117 loài, cung cấp nguyên liệu để nghiên cứu và tạo ra các sản phẩm thuốc, thực phẩm chức năng, phục vụ chăm sóc sức khỏe.
Nhằm góp phần vào việc sử dụng đúng các vị thuốc, cây thuốc va bai thuôc, cac cán bộ nghiên cứu của Viện Dược liệu vưa hoan thanh tổng hợp dữ liệu cung như hình ảnh vê “Môt sô dươc liêu, vi thuôc cô truyên va cây thuôc đươc sư dung trong phong va hô trơ điêu tri viêm đương hô hâp câp do virus SARS-CoV-2″ (theo công văn số 1306/BYT-YHCT ngày 17.3.2020 của Bộ Y tế về việc tăng cường phòng, chống bệnh viêm đường hô hấp cấp do SARS-CoV-2 bằng thuốc và các phương pháp y hoc cô truyên.
Công văn co 8 nôi dung, trong đo co yêu câu kêt hơp y hoc cô truyên vơi y hoc hiên đai trong phong, hô trơ điêu tri SARS-CoV-2, đanh gia kêt qua sư dung thuôc cô truyên, y hoc cô truyên trong hô trơ điêu tri ngươi bênh nhiêm SARS-CoV-2, nêu co) cho những ai quan tâm sử dụng. Xin trân trong giơi thiêu cung ban đoc.
71 DƯỢC LIỆU, VỊ THUỐC CỔ TRUYỀN VÀ CÂY THUỐC CO THÊ SỬ DỤNG
1.Bạc hà (tên Viêt Nam: Bac Ha); 2.Bạch chỉ; 3.Bạch linh/ Phục linh (Nấm phục linh); 4.Bạch thược (Thược dược); 5.Bạch truật; 6.Bán hạ chế (Bán hạ bắc); 7.Bản lam căn; 8.Bưởi; 9. Cam thảo (Cam thảo, Trướng quả cam thảo, Dương cam thảo); 10.Cát căn (Sắn dây);
11.Cát cánh; 12.Chỉ xác (Cam chua, Cam ngọt); 13. Diếp cá; 14.Đại hoàng (Đại hoàng chân vịt, Đại hoàng; Kê trảo đại hoàng); 15.Đại táo; 16.Đại thanh diệp (Bọ mẩy); 17.Đạm đậu xị (Đậu đen); 18.Đạm trúc diệp; 19. Đan bì, Đơn bì (Mẫu đơn); 20.Đan Sâm;
21.Đảng Sâm; 22.Độc hoạt; 23.Đương quy; 24.Hạnh nhân (Mơ); 25.Hoắc hương; 26.Hoài sơn (Củ mài); 27.Hoàng cầm (Hoàng cầm bắc); 28.Hoàng kỳ chích (Hoàng kỳ); 29.Hoàng liên (Hoàng liên Trung Quốc; Hoàng liên chân gà; Hoàng liên); 30.Hương nhu (Hương nhu tía; Hương nhu trắng);
31.Huyền sâm; 32.Khương hoạt; 33.Kim ngân hoa (Kim ngân; Kim ngân núi; Kim ngân vòi nhám; Kim ngân lông); 34.Kinh giới tuệ (Kinh giới); 35.Lá lốt; 36.Liên kiều; 37.Long não; 38.Ma hoàng (Thảo mộc hoàng; Mộc tặc ma hoàng; Trung gian ma hoàng); 39.Mạch môn (Mạch môn đông); 40.Màng tang;
41.Mộc hương); 42.Mùi (Rau mùi); 43.Ngũ vị tử (Ngũ vị tử bắc); 44 Ngưu bàng; 45.Nhân sâm; 46.Nhục quế (Quế); 47.Phòng phong); 48.Sả chanh; 49.Sa sâm; 50.Sài hồ (Sài hồ bắc);
51.Sinh địa (Địa hoàng; Sinh địa); 52.Sinh khương (Gừng); 53.Sơn thù (Sơn thù du); 54. Thanh cao hoa vàng; 55.Thục địa (Địa hoàng); 56.Tiền hồ (Tiền hồ; Tiền hồ hoa trắng); 57.Tô diệp (Tía tô); 58.Tỏi; 59. Trà xanh; 60.Trạch tả;
61.Tràm (Tràm; Tràm gió); 62.Trần bì (Quýt); 63.Tri mẫu; 64.Tỳ bà diệp (Nhót tây; Nhót Nhật Bản); 65.Viễn chí (Viễn chí lá nhỏ; Viễn chí lá trứng); 66. Xuyên bối mẫu; 67.Xuyên khung; 68.Xuyên tâm liên; 69.Thủy ngưu giác – bôt sưng trâu nước; 70.Mang tiêu (Natrii Sulfas/ Muối natri sunfat); 71.Sinh thạch cao (Gypsum fibrosum/ Thạch cao sống CaSO4.2H2O).
Cây diêp ca. Anh: Viên Dươc liêu
Cây hoang liên (Anh: Viên Dươc liêu).
Cây cu mai. Anh: Viên Dươc liêu
Cây quê. Anh: Viên Dươc liêu
Vi thuôc thuy ngưu giac (sưng trâu nươc). Anh: Viên Dươc liêu
Vi thuôc bươi. Anh: Viên Dươc liêu
Video đang HOT
Cây trà xanh. Anh: Viên Dươc liêu
Hanh nhân (Mơ). Anh: Viên Dươc liêu
Cây tia tô. Anh: Viên Dươc liêu
HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG TRONG PHÒNG CHÔNG ĐAI DICH
Theo y học cổ truyền, bệnh này thuộc phạm vi “ôn dịch” của học thuyết “ôn bệnh học” và có tên “cảm mạo ôn bệnh”. Bệnh ngoại cảm ôn bệnh là tên gọi chung của những bệnh ngoại cảm với những đặc điểm: Khởi phát với phát sốt, bệnh cảnh thiên về nhiệt, diễn biến theo quy luật, bệnh thường cấp tính, diễn tiến nhanh, bệnh cảnh thường nặng. Bệnh thường lây nhiễm nhanh và khi phát bệnh thành dịch thì được gọi là “ôn dịch”.
Nguyên nhân gây bệnh do mùa đông cảm nhiễm phong hàn chưa đủ sức gây bệnh thành phục tà (đông vu thương hàn xuân tất bệnh ôn) khi đến mùa xuân gặp các yếu tố thuận lợi phát thành dịch lệ. Tà khí theo đường phế vệ hoặc vào miệng, hầu họng vào phế. Tùy theo chính khí của mỗi người hoặc phối hợp thêm các nguyên nhân như: Nhiệt, thấp, đàm… mà thời gian phát bệnh, nhiều thể bệnh và mức độ bệnh lý nặng nhẹ khác nhau trên lâm sàng.
ĐIỀU TRỊ
Tùy tình trạng bệnh lý và diễn biến bệnh theo y học cổ truyền chia thành 3 giai đoạn. Mỗi giai đoạn bệnh y học cổ truyền có pháp điều trị khác nhau và áp dụng tại các bệnh viện có đủ điều kiện về nhân lực, trang thiết bị và cơ sở vật chất.
1. Giai đoạn khởi phát: Đây là bệnh ở thời kỳ đầu phong hàn xâm phạm vào bì mao và phế vệ. Triệu chứng: Phát sốt, sợ gió lạnh, hắt hơi, ngạt mũi, khát không nhiều, ho ít đàm, hoặc đàm khó khạc, mạch phù sác.
Phương pháp điều trị: Sơ phong thanh nhiệt, tuyên phế chỉ khái.
Thuốc uống: Dùng một trong các bài thuốc sau: A. Ngân kiều tán (Ôn bệnh điều kiện). B. Ngân kiều tán gia giảm. C. Sâm tô tán (Hòa tễ cục phương). D. Nhân sâm bại độc tán (Tiểu nhi dược chứng trực quyết). E. Hạnh tô tán (Ôn bệnh điều biện).
2. Giai đoạn toàn phát: Giai đoạn này bệnh có thể biểu hiện bệnh ở khí phận hay dinh phận. Nhiệt tà nhập vào những vị trí khác nhau nên xuất hiện các triệu chứng lâm sàng khác nhau.
A. Bệnh biểu hiện ở phần khí. Bệnh có thể biểu hiện nhiệt chủ yếu ở phế, có thể kết hợp ở vị và đại trường. Triệu chứng: Sốt, phiền khát, phiền táo, bất an, ho đờm đặc vàng, khó khạc. Khí suyễn, có thể ho ra máu, tiểu đỏ, lưỡi đỏ, rêu vàng khô hoặc nhớt, mạch hoạt sác. Pháp điều trị: Tuyên phế, thanh nhiệt, định suyễn. Dùng thuốc: Bài thuốc Ma hạnh thạch cam thang (Thương hàn luận). Trường hợp người bệnh biểu hiện trường táo tiện bế táo bón gia thêm các vị nhuận táo thông tiện hoặc kết hợp bài Điều vị thừa khí thang (Thương hàn luận). Trường hợp người bệnh có các triệu chứng tả lỵ nhiều lần, hậu môn nóng rát, mạch sác, miệng khát, rêu vàng khô, dùng kết hợp bài Cát căn cầm liên thang.
B. Bệnh biểu hiện ở phần dinh. Nếu bệnh nặng nhiệt thương dinh âm (âm hư nội nhiệt) có biểu hiện: Sốt cao li bì, tâm phiền khó ngủ hoặc nói lảm nhảm, miệng khô, khó thở lưỡi đỏ tươi, mạch trầm tế hoạt, tế sác hoặc phù đại.
Pháp điều trị: Thanh dinh thấu nhiệt.
Dùng thuốc: Bài thuốc Thanh dinh thang. Trường hợp bệnh nặng nguy kich: Người bệnh thở khó, cử động thở nhanh hay phải có hỗ trợ thông khí, bán hôn mê, phiền táo, ra mồ hôi chi lạnh, chất lưỡi ám tối, rêu dày dơ hay táo, mạch phù đại vô căn. Chuyển người bệnh đến bệnh viện y học hiện đại hoặc các cơ sở điều trị bệnh truyền nhiễm theo quy định.
3. Giai đoạn hồi phục: Sau giai đoạn toàn phát có thể có biểu hiện các triệu chứng khác nhau và có pháp điều trị khác nhau. Trường hợp biểu hiện các triệu chứng của phế tỳ khí hư: Khí đoản, mệt mỏi, ăn kém, buồn nôn, bụng đầy, đại tiện vô lực, đại tiện lỏng, lưỡi nhạt bệu, rêu trắng dơ. Pháp điều trị: Kiện tỳ ích khí.
Dùng thuốc: Bài thuốc Bảo nguyên thang. Trường hợp người bệnh có biểu hiện của Khí âm lưỡng hư: Khí đoản, mệt mỏi, ăn kém, miệng khô khát, bồn chồn, ra mồ hôi, ho khan có ít đờm, lưỡi khô ít tân dịch, mạch tế hoặc vô lực…
Pháp điều trị: Bổ khí dưỡng phế. Dùng thuốc: Dùng một trong các bài thuốc sau: a. Thập toàn đại bổ (Hòa tễ cục phương). b. Sinh mạch tán. c. Nhân sâm dưỡng vinh thang. Trường hợp bệnh lâu có âm hư kèm tâm quý, huyết áp thấp, dùng một trong các bài thuốc sau: a: Lục vị địa hoàng hoàn hợp Sinh mạch ẩm. b: Dưỡng âm thanh phế thang.
(Ban đoc thưc sư quan tâm đên cac bai thuôc nay xin liên hê Khoa Tài nguyên Dược liệu, Viện Dược liệu đê biêt thêm chi tiêt).
4. Giai đoạn tái nhiễm: Điều trị như nhiễm bệnh, tùy tình trạng bệnh lý của người bệnh theo y học cổ truyền mà người thầy thuốc có pháp điều trị, thuốc cổ truyền và phương pháp điều trị cho phù hợp.
PHÒNG BỆNH
Sử dụng các phương pháp y học cổ truyền để hạn chế lây nhiễm và phòng ngừa bệnh.
1. Các phương pháp xông phòng ở, phòng làm việc.
Phương pháp 1: Sử dụng dược liệu chứa tinh dầu: Sả chanh, bạc hà, quế, mùi, bưởi, tràm gió, màng tang, long não, kinh giới, tía tô…
Liều dùng, cách dùng: Có thể dùng một loại dược liệu hoặc phối hợp nhiều loại dược liệu, mỗi loại từ 200-400g tùy theo diện tích phòng, cho dược liệu vào nồi, đổ nước ngập dược liệu, đậy nắp nồi, đun sôi lăn tăn, mở nắp để hơi nước bão hòa tinh dầu khuếch tán ra không gian phòng, tiếp tục đun sôi nhỏ thêm 30 phút, đóng cửa phòng khoảng 20 phút. Ngày làm 2 lần, sáng và chiều.
Phương pháp 2 sử dụng tinh dầu: Sả chanh, bạc hà, hương nhu, bưởi, tràm, quế, long não được cơ quan có thẩm quyền cấp phép lưu hành. Liều dùng, cách dùng: Tùy theo diện tích phòng (10-40m2), lấy lượng tinh dầu phù hợp (2-4 ml), hòa tan tinh dầu trong ethanol 75%, lắc đều, cho vào bình xịt phun sương, xịt quanh phòng, hoặc xịt vào chỗ cần sát khuẩn, đóng cửa phòng khoảng 20 phút, ngày xịt 2 – 3 lần.
Lưu ý: Không xông có tinh dầu trong phòng ngủ có trẻ em dưới 30 tháng tuổi, trẻ em có tiền sử co giật do sốt cao, động kinh, người có dị ứng với tinh dầu.
2. Các biện pháp vệ sinh cá nhân. Thuốc dùng ngoài: 1. Dung dịch nhỏ mũi: Dung dịch tỏi 10% đạt tiêu chuẩn chất lượng theo quy định.
Tác dụng: Sát khuẩn.
Liều lượng, cách sử dụng: Nhỏ mũi mỗi ngày 3 đến 5 lần, mỗi lần 1 giọt. 2. Nước súc miệng: Thành phần: Tinh dầu quế, bạc hà, NaCl… Tác dụng: Sát khuẩn miệng, họng. Liều dùng, cách sử dụng: Súc họng ngày 2 đến 4 lần. 3.
Thuốc xông: Thành phần: Kinh giới, lá lốt, bạc hà, trần bì, bạch chỉ, kim ngân hoa… Lưu ý: Không nên để mặt quá gần bát nước xông tránh bỏng.
Thuốc dùng trong: 1. Bài thuốc: Ngọc bình phong tán. Thành phần: Sinh Hoàng kỳ, bạch truật, phòng phong. 2. Nước ép tỏi. Thành phần: Củ tỏi và nước đun sôi để nguội.
Liều lượng, cách sử dụng: Lượng tỏi vừa đủ. Xay hoặc nghiền tỏi lọc lấy nước, hòa cùng nước ấm theo tỉ lệ 1:10. Chia uống nhiều lần trong ngày. 3. Một số loại trà thảo dược. Trà lá diếp cá: Lá diếp cá 5g (tươi 10g); trà xanh 3g (tươi 6g), liên kiều 3g; hậu phác 3g.
Các vị thuốc trên cho vào ấm hoặc dụng cụ phù hợp, cho 200ml nước sôi để nguội dần còn khoảng 70-800 hãm khoảng 5-10 phút, uống trong ngày.
Trà Kinh giới, trà xanh: Kinh giới (lá khô) 10g, trà xanh 3g (tươi 6g). Các vị thuốc trên cho vào ấm hoặc dụng cụ phù hợp, cho 200ml nước sôi để nguội dần còn khoảng 70-80ml pha hãm khoảng 5-10 phút, uống trong ngày.
Trà Kinh giới, bạc hà: Kinh giới 5g, lá bạc hà 3g, trà xanh 3g. Các vị thuốc trên cho vào ấm hoặc dụng cụ phù hợp cùng 200ml nước sôi để nguội dần còn khoảng 70-800 hãm khoảng 5-10 phút, uống trong ngày.
Trà Kinh giới, quế chi: Lá kinh giới 5g, quế chi 3g, trà xanh 3g. Các vị thuốc trên vào ấm hoặc dụng cụ phù hợp, cho 200ml nước sôi để nguội dần khoảng 70-80ml hãm khoảng 5-10 phút, uống trong ngày. Sử dụng dược liệu tươi pha chế làm trà: Lá trà tươi 10g, sinh khương bỏ vỏ 10 lát; sắc hoặc hãm uống thay trà trong ngày.
Hoắc hương tươi 10g, lá tía tô tươi 10g, lá bạc hà tươi 10g; rửa sạch, sắc hoặc ham uông thay tra. Cam thao 3g, phong phong 6 gam, hai thư nghiên nho ham vơi nươc sôi uông thay tra trong ngay. Hoăc hương 8g, tư tô 8g, kinh giơi 8g, bac ha 8g, la tra 5g, săc hoăc ham vơi nươc sôi uông thay tra.
Chê đô ăn, luyên tâp nâng cao sưc đê khang mua đai dich
Giam stress: Không qua lo lăng vê dich bênh noi chung va COVID-19 noi riêng, cân băng giưa nghi ngơi – lam viêc (nên nghi trưa, it nhât 30 phut), tranh cac công viêc gây stress hay lươi vân đông. Tranh ngu sau 22h, trương hơp thưc khuya không ngu sau 23h.
Chê đô ăn: Chê đô ăn phong phu va đa dang la chia khoa cho môt cơ thê khoe manh, ăn cac thưc phâm giau chât dinh dương đây đu đương, đam, beo, vitamin va khoang chât, tranh ăn nhiêu cac thưc ăn chiên xao. Chê đô ăn đây đu dinh dương nhât la cac loai vitamin, ăn nhiêu rau cu qua tươi. Han chê thuôc la, rươu bia, ca phê.
Tâp thê duc, dương sinh: Tâp thơ bung ngay 4 lân, môi lân 3-5 phut đê tăng sưc khoe. Tâp thê duc (thư gian) giưa giơ. Tư xoa bop toan thân luc sang dây.
Trong khủng hoảng Covid-19, thiền định là phương pháp được nhiều người tìm tới nhất: Xua tan lo âu và sợ hãi bằng cách thở và ngắm nhìn thiên nhiên
Trong thời điểm dịch Covid-19 đang hoành hành khắp nơi như lúc này, rất nhiều người trên thế giới đã tìm đến thiền định như một cách để giải tỏa những cảm xúc tiêu cực. Chỉ 10 phút mỗi ngày là đủ để mọi người quên đi những hoang mang, lo sợ ngoài kia và tìm lại bình yên trong tâm hồn mình.
Trước khi dịch Covid-19 buộc tôi phải ngồi nhà, tôi thường thực hiện một nghi thức thiền vào buổi sáng: đứng im lặng trên ban công suốt 40 phút và nhìn vào rặng cây vàng rực phía trước.
Tối đến, tôi cũng tập thiền. Thói quen này nuôi dưỡng lòng biết ơn và trắc ẩn trong suốt quãng thời gian bất ổn này, nhất là khi tôi đang chờ đứa con thứ hai ra đời.
Tôi đã bị thu hút bởi chánh niệm và thiền định từ khi còn là một thiếu niên. Tuy nhiên, tôi mới biến nó thành thói quen hàng ngày cách đây 1 năm, sau khi một buổi học với Danielle Van de Velde.
Thiền định cho phép chuyển đổi từ lối sống bị động sang chủ động, nhờ đó ta có thể tập trung vào những điều mình muốn như suy nghĩ, trải nghiệm và chữa lành.
"Điều này rất quan trọng trong hoàn cảnh hiện tại, khi mà cuộc sống của chúng ta bị hạn chế và tra tấn liên tục bởi tin tức về Covid-19", Van de Velde - giáo viên dạy thiền người Úc với 30 năm kinh nghiệm - cho biết.
Là phương pháp đưa con người vào trong nhận thức hiện tại, thiền định tạo ra một trạng thái hiện tại mới và khả năng quay về nhận thức hiện tại theo ý muốn.
Giống như tôi, Van de Velde tin rằng thiền định đã đem lại cho bà một sức khỏe tốt, khả năng phòng ngừa bệnh tật và năng lực sống bằng trực giác. "Thiền định đối với tôi là lối sống, là trạng thái hiện tại, chứ không chỉ là một hoạt động mà tôi tham gia. Nó đã thay đổi hoàn toàn cách tôi sống", bà tâm sự.
Van de Velde bắt đầu tập thiền từ khi mới là một đứa trẻ. "Ngay từ bé, tôi luôn khao khát được thấu hiểu cuộc sống và bản thân", bà cho biết. Điều này, cùng với tính cách hơi nổi loạn, đã dẫn bà tới cuộc hành trình dò tìm và khám phá.
Những năm 20-30 tuổi, Van de Velde làm việc trong ngành tài chính và bất động sản tại Úc, Mỹ và châu Âu. Ngoài giờ làm, bà dành thời gian tìm tòi nhiều phương pháp chữa lành và kỹ thuật thiền, cũng như hướng dẫn tập thiền cho các nhóm khách hàng trước khi trở thành giáo viên có chứng chỉ. 15 năm trước, Van de Velde đã rời bỏ cuộc sống văn phòng để đi dạy thiền.
Hầu hết các học sinh của Van de Velde đều bị stress nặng vì cảm giác "bất lực và hoang mang" trong suốt mùa dịch Covid-19. "Những cảm xúc này dễ khiến con người tạo ra những thực tại thay thế đầy chết chóc và đau thương, tách họ ra khỏi thế giới thực sự", bà giải thích.
Sutha Atiin - một nhân viên xã hội đến từ Indonesia - hiện đang làm học sinh của bà. Cô cảm thấy lo lắng, chóng mặt khi thấy số ca nhiễm Covid-19 cứ không ngừng gia tăng.
"Tôi có con cháu ở Anh và Singapore, đại gia đình ở Úc và toàn thể gia đình ở Indonesia. Là một người mẹ và một người bà, tôi lo chúng sẽ nhiễm Covid-19", người phụ nữ 62 tuổi này tâm sự.
Để giải tỏa stress, Atiin thường tập thiền dưới hình thức pranayama - có nghĩa là năng lượng hay sinh lực (prana) và thở (yana). Cô cũng yêu thích nadi sodhana - phương pháp thở xen kẽ bằng mũi
"Đêm nọ, tôi bỗng dưng thấy lo lắng", Atiin nhớ lại. "Tôi đã tập nadi sodhana: đóng lỗ mũi trái và hít vào thật chậm qua mũi phải, sau đó đóng lỗ mũi phải để thở ra thật chậm qua mũi trái". Sau 20 phút như thế, cô ấy đã quay trở về trạng thái thư giãn.
Sutha Atiin đang tập thiền dưới hình thức pranayama.
"Trong lúc ấy, tôi cũng đồng thời gửi tới mọi người tình yêu và lòng trắc ẩn. Phương pháp này luôn khiến tôi cảm thấy bình yên trong lòng", bà bổ sung.
Thiền định không chỉ tốt cho trí tuệ mà còn bồi bổ cơ thể, kích thích não bộ sản sinh ra các chất hóa học nhằm tăng cường hệ miễn dịch. Lòng biết ơn, sự ngưỡng mộ, lòng tốt và lòng vị tha đều được cho là có tác dụng này.
Bản đánh giá của 20 nghiên cứu về mối quan hệ giữa thiền định và hệ miễn dịch trên Biên niên sử của Học viện Khoa học New York năm 2016 đã chỉ ra, thói quen này có làm giảm viêm nhiễm, tăng cường hệ miễn dịch và làm chậm quá trình lão hóa.
Thiền định là chìa khóa giúp tôi bình ổn về mặt tinh thần lẫn tâm linh trước giờ sinh nở mà không cần dùng tới thuốc. Bất cứ khi nào có thể, tôi sẽ ngồi thiền ở bên ngoài hoặc ngắm nhìn thiên nhiên. Việc ngắm nhìn cây cối thực sự rất dễ chịu và đem lại cảm giác bình yên. Ngồi khoanh chân trên chiếc nệm thiền, tôi nhắm mắt lại và tập trung vào từng nhịp thở của mình. Tôi hít vào thật sâu và thở ra hết sức đều đặn, chậm rãi.
Sau vài phút tập trung thở, tôi đã đạt đến trạng thái thay đổi nhận thức và quay trở về với nhịp thở tự nhiên của mình - thứ giờ đây đã chậm rãi và thoải mái hơn nhiều. Tôi quan sát bất kỳ suy nghĩ hay âm thanh nào lọt vào tâm trí mình. Mỗi khi có suy nghĩ xuất hiện, tôi sẽ hình dung nó thành quả bóng bay và thả nó lên bầu trời.
Sau khi thiền, tôi cảm thấy bình tĩnh và hoàn toàn hiện diện ở hiện tại. Điều này giúp tôi mặc kệ những dòng cảm xúc cứ đến rồi đi trong ngày.
Trong thời gian cách ly xã hội, khi chồng tôi và các đồng nghiệp của anh ấy họp trực tuyến vào sáng thứ Hai, tôi sẽ hướng dẫn họ tập thiền đơn giản để họ thư giãn và kiểm soát stress tốt hơn.
Với phương pháp này, mọi người có thể bước vào trạng thái thiền định suốt cả ngày, không chỉ mỗi lúc ngồi tập nghiêm chỉnh. "Quá trình này diễn ra nhanh, khi cơ thể bắt đầu nhận ra được sự chuyển động nội tại và các đường dẫn truyền thần kinh được thiết lập để hình thành nên thói quen thiền", Van de Velde giải thích. "10 phút tập trung thiền mỗi ngày sẽ giúp bạn tạo ra những thay đổi đó chỉ trong một thời gian ngắn".
Để có thể duy trì được sự bình yên nơi tâm hồn trong thời điểm dịch bệnh này, Van de Velde gợi ý mọi người nên chuyển sang chế độ nhẹ nhàng, với lượng rau củ quả nhiều hơn. Ngoài ra, bà cũng khuyến khích kết nối với thiên nhiên và những người thân yêu xung quanh.
Atiin đã thử các hình thức thiền định khác, bao gồm việc dành thời gian để làm việc. "Tôi cảm thấy việc kết nối và chăm sóc khu vườn của mình cực kỳ dễ chịu", bà nói. Lần đầu tiên sau nhiều năm, bà cũng thử cầm lại cọ vẽ. "Hình thức sáng tạo nghệ thuật này có tác dụng chữa lành và giúp tôi xử lý cảm xúc."
Van de Velde tin rằng, dịch bệnh lần này là cơ hội vàng để mọi người hiểu sâu hơn về hệ thống tinh thần-thể chất-năng lượng, cũng như khả năng chữa lành và tự điều tiết của nó. "Đây có lẽ là lời mời vĩ đại nhất mà thế giới có được để trở nên tốt đẹp hơn, và điều này chỉ xảy ra với mỗi người tại một thời điểm", bà nhận xét.
Bài chia sẻ của Angela Jelita - phóng viên thời vụ kiêm nhà hoạt động vì môi trường của SCMP.
Vượt qua stress, trầm cảm mùa COVID-19 Một số bạn trẻ hiện nay đang stress, thậm chí trầm cảm vì những kế hoạch, dự định trong công việc phút chốc dang dở vì "Cô Vy". Làm gì để vượt qua? Bạn trẻ vào phòng thể thao tại một trường đại học ở TP.HCM, không quá 2 người, không bật máy lạnh, phải đeo khẩu trang, cách nhau an toàn -...