Cạnh tranh khốc liệt tại thị trường nhân lực CNTT Nhật
Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nguồn nhân lực dồi dào, nhưng số người làm việc cho thị trường Nhật vẫn khiêm tốn so với tiềm năng phát triển.
Vấn đề phát triển nguồn nhân lực cho việc hợp tác CNTT giữa Việt Nam và Nhật Bản là một chủ đề được doanh nghiệp hai nước quan tâm. Đại diện doanh nghiệp Nhật Bản và các trường đại học đào tạo CNTT ở Việt Nam đã cùng “mổ xẻ” vấn đề này trong Tuần CNTT Nhật Bản 2013 được tổ chức ở Hà Nội.
Theo Cơ quan Xúc tiến CNTT Nhật Bản (IPA), năm 2012 Việt Nam đã vượt Ấn Độ trở thành đối tác lớn thứ hai của Nhật Bản với 23% lượng đơn đặt hàng hải ngoại. Việt Nam đang là điểm đến hấp dẫn của các doanh nghiệp Nhật Bản trong bối cảnh mối quan hệ Nhật – Trung diễn biến phức tạp.
Ngoài việc yếu tố ổn định về chính trị, các doanh nghiệp Nhật Bản chọn Việt Nam vì nguồn nhân lực khá dồi dào và giá nhân công rẻ. Ông Ngô Văn Toàn, Phó Chủ tịch Global Cybersoft cho biết nhân lực của công ty này tăng 20-25 % một năm. Đối với thị trường Nhật Bản, Global Cybersoft cần khá nhiều như kỹ sư cầu nối, biên phiên dịch tiếng Nhật và kỹ sư quy trình… Nhưng nhiều doanh nghiệp Nhật cho biết tuyển dụng cũng chưa đủ với nhu cầu nên trong nhiều dự án họ phải hợp tác với doanh nghiệp địa phương để triển khai dự án.
Đại diện doanh nghiệp Nhật Bản và trường đại học ở Việt Nam bàn thảo về việc phát triển nguồn nhân lực cho thị trường Nhật tại Hội nghị Quốc tế Gia công xuất khẩu phần mềm VN. Ảnh:Nguyên Anh.
Theo số liệu công bố, đào tạo đại học và cao đẳng chuyên ngành CNTT tại Việt Nam chiếm 10,83% tổng chi tiêu cao đẳng – đại học. Số lượng CNTT tốt nghiệp đạt 40.000 một năm và hiện có 170.000 sinh viên đang học ngành CNTT. Tuy nhiên, số lượng cử nhân CNTT làm việc cho thị trường Nhật Bản hiện không nhiều, do những đặc thù của thị trường này.
Khảo sát nhanh của Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ CNTT Việt Nam ( VINASA) với gần 40 doanh nghiệp CNTT Việt Nam, 61% doanh nghiệp đánh giá khó khăn lớn nhất trong hợp tác giữa doanh nghiệp Việt Nam và Nhật Bản là rào cản ngôn ngữ (tiếng Nhật).
Video đang HOT
Bà Junko Kawaichi, Phó Chủ tịch phụ trách các vấn đề toàn cầu của Hiệp hội Dịch vụ CNTT Nhật Bản (JISA), cho biết: “Để thúc đẩy việc hợp tác cần phải giải quyết một số vấn đề quan trọng là năng lực quản lý dự án, quản lý chất lượng và trình độ tiếng Nhật của các kỹ sư Việt Nam và tiếng Anh của các kỹ sư Nhật Bản”.
Tại Việt Nam, số trường đại học đào tạo về tiếng Nhật không nhiều, nhất là chuyên ngành CNTT bằng tiếng Nhật. Đại học FPT nổi tiếng là trường đào tạo về CNTT ở Việt Nam với yêu cầu tiếng Nhật là ngoại ngữ thứ hai nhưng mỗi năm chỉ cung cấp khoảng 500-600 người.
Hiệu trưởng Đại học FPT Lê Trường Tùng cho rằng Nhà nước, VINASA, doanh nghiệp và các trường đại học nên ngồi lại để tìm ra đòn bẩy cho việc phát triển nguồn nhân lực cho thị trường Nhật Bản. Ảnh: Nguyên Anh.
Theo Tiến sĩ Lê Trường Tùng, Hiệu trưởng đại học FPT, con số này quá nhỏ so với nhu cầu nhân lực hiện tại, vì riêng công ty FPT Software đã cần cả ngàn nhân viên phục vụ cho thị trường Nhật Bản. Để tuyển gấp nhân viên, công ty này liên tục đưa ra các chính sách thu hút như thưởng tiền đến chục triệu đồng cho ai giới thiệu được ứng viên biết tiếng Nhật vào làm việc tại FPT Software.
“Cách làm của FPT Software là mới chỉ chi tiền cho tuyển dụng chứ chưa phải là chi cho đào tạo, cho lâu dài. Chúng ta phải có chính sách tổng thể khuyến khích người học CNNT phục vụ cho thị trường Nhật. Đây là vấn đề là Nhà nước, VINASA, doanh nghiệp và các trường đại học càn phải bàn với nhau”, ông Tùng phân tích.
Ông cho rằng, dù doanh nghiệp có nhu cầu, trường sẵn sàng dạy nhưng người học chưa thấy được lợi ích như hỗ trợ học phí, cam kết việc làm từ phía doanh nghiệp, nhà nước từ việc này thì nhân lực CNTT cho thị trường mặt trời mọc vẫn sẽ thiếu.
Bên cạnh thiếu nhân lực, việc đào tạo người để đáp ứng cho yêu cầu công việc là bắt buộc đối với các doanh nghiệp Nhật Bản. Công ty Global Cysoft cho biết họ thành lập trung tâm huấn luyện dành cho thực tập sinh và đào tạo khoảng 3-4 tháng để có thể tham gia vào dự án.
Mặc dù vậy, theo các doanh nghiệp việc phát triển nhân lực cho hợp tác với doanh nghiệp Nhật khó nhưng vẫn có thể thực hiện được.
Theo VNE
Một số người học CNTT mất niềm tin nghề nghiệp
Mặc dù ngành CNTT đang rất khan hiếm nhân lực, một bộ phận sinh viên theo học ngành này vẫn băn khoăn không rõ học xong mình sẽ làm gì, một số lại cho rằng CNTT làm việc vất vả, lương thấp...
Sinh viên CNTT nên trau dồi thêm ngoại ngữ, kỹ năng mềm để tăng khả năng thành công trong nghề. Ảnh: Chungta.vn.
Đây là những ý kiến được các độc giả trực tiếp chia sẻ với VnExpress và trao đổi trên một số diễn đàn.
Nguyễn Thanh Thảo, sinh viên năm thứ hai Đại học Nha Trang, cho biết vẫn chưa xác định được sau này sẽ làm phân ngành gì cho phù hợp với nữ. Nếu làm quản lý hệ thống thông tin cần bắt đầu từ đâu. Đoàn Công Chánh, sinh viên trường Cao đẳng Kinh tế kỹ thuật Phú Lâm, đang học ngành mạng băn khoăn không biết ra trường có xin được việc làm không, "để chuẩn bị xin việc, em cần làm gì từ bây giờ". Huỳnh Thị Hữu Nụ cho rằng, khi theo nghề CNTT mà muốn đi làm được thì phải bỏ tiền đi học một khóa ở ngoài nữa để có thêm các chứng chỉ như Aptech, NIIT và không biết lấy đâu ra tiền để theo. Thậm chí, có bạn còn tính chuyển ngành. Phạm Thị Dung, sinh viên năm thứ 4 khoa CNTT, ĐH Nông nghiệp Hà Nội, cho biết: "Em đang băn khoăn không biết có nên học văn bằng kế toán không vì em thấy học lĩnh vực CNTT khó quá. Năm thứ 4 nhưng em không hiểu đã học được những gì rồi". Một số học viên các trung tâm đào tạo phi chính quy cũng có băn khoăn tương tự. Bàn Văn An chia sẻ: "Em học lập trình viên quốc tế mà chả biết sau này ra trường làm việc ở đâu?"
Không chỉ sinh viên mông lung về ngành họ đang theo học, một số người cũng tỏ ra hoài nghi về tương lai nếu chọn theo ngành CNTT. Bạn Nguyễn Lâm cho rằng "những người học CNTT phải may mắn mới tìm được việc làm trong ngành này". "Em thích lập trình mà sợ ngành này tiền lương thấp, ít việc làm" bạn Nguyễn Tất Đức bày tỏ. Thậm chí, không ít ý kiến cho rằng "cường độ làm việc lớn, phải thức khuya liên tục, học quá nhiều công nghệ mới thường xuyên, cộng với đồng lương không cao là nguyên nhân ít người muốn theo ngành này lâu dài"...
Chia sẻ với các bạn trẻ về những quan điểm trên, anh Lâm Quang Nam, một người đã có 20 năm kinh nghiệm trong ngành CNTT, cho rằng có lẽ các bạn trẻ nhận định ngành này chậm thăng tiến (trong quan niệm phổ thông thăng tiến nghĩa là lên chức, lên lương) do mấy năm nay GDP của ta tăng chậm, doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp CNTT gặp nhiều khó khăn, vì vậy, mong lên chức, lên cấp, lên lương lúc này có vẻ hơi thiếu thực tế.
Ở giai đoạn 2000-2005, thậm chí đến 2008, có lẽ không ai chê ngành CNTT lương thấp hay chậm thăng tiến. Ngược lại, nhà nhà đổ đi làm CNTT, người người đổ đi học CNTT vì thấy trong ngành này thăng tiến khá nhanh và lương khá cao. Những người bắt đầu đi học/đi làm CNTT cách đây khoảng 5 năm mới là những người đầu tiên thấy ngành này chậm thăng tiến, nghề này lương thấp vì ảnh hưởng chung của suy thoái toàn cầu như đã đề cập ở trên. Đây cũng là thời điểm "cung cao hơn cầu" do nhiều người đổ xô đi học CNTT vào những năm trước 2008.
Giao lưu với các học viên Aptech về chủ đề "Nghề lập trình - Góc nhìn thẳng" ngày 13/4, ông Lê Quang Lượng, Giám đốc điều hành Công ty Luvina (chuyên về gia công phần mềm), nói rằng cách nhìn bi quan về nghề CNTT có chăng chỉ là quan điểm của một bộ phận nhỏ trong xã hội. Thực tế tại Luvina, lập trình viên mới ra trường lương khởi điểm là khoảng 5,5 - 6 triệu đồng/tháng nhưng sau 3-5 năm có thể tăng lên 20 triệu đồng/tháng nếu cá nhân đó có phương pháp làm việc hiệu quả, thành thạo ngoại ngữ, có kỹ năng mềm. Còn theo Payscale.com, website chuyên so sánh về lương, bình quân lương kỹ sư phần mềm (với 4 năm kinh nghiệm) ở Việt Nam gần bằng 4/5 ở Trung Quốc, và cao gấp đôi Ấn Độ.
Đồng quan điểm với ông Lượng, ông Phan Phương Đạt, Phó Tổng Giám đốc FPT Software, chia sẻ thực tế tuyển dụng tại công ty này cho thấy điểm yếu của nhiều sinh viên hiện nay là chỉ có kiến thức nền tảng, không được cập nhật công nghệ, thiếu kỹ năng mềm (như giao tiếp, làm việc nhóm), yếu ngoại ngữ, thái độ và phương pháp làm việc. "Điều này khiến các bạn khó bắt nhịp với thực tiễn của doanh nghiệp cũng như phát triển về sau", ông Đạt nhấn mạnh. "Bên cạnh đó, một bộ phận giới trẻ có xu hướng muốn làm giàu nhanh, trong khi ngành phần mềm lao động trí óc căng thẳng nên họ coi đây ngành này lao động vất vả, lương thấp".
Nói về nghề lập trình, Nguyễn Mạnh Linh, một lập trình viên công ty Gimasys, cho rằng mỗi ngành đều có những áp lực riêng. Với nhân viên kinh doanh họ phải chịu áp lực về doanh số, hay với nhân viên hành chính là ngày làm 8 tiếng thì với lập trình viên, áp lực đặc thù là "over time" (làm việc thêm giờ). Tuy nhiên, theo Linh, áp lực này chỉ diễn ra trong từng giai đoạn của dự án. Khi dự án kết thúc, lập trình viên lại có thời gian nghỉ ngơi dài ngày, có thể tranh thủ đi du lịch xa. Còn Nguyễn Thiện Chính, sinh viên Đại học FPT ví "ngồi code cũng như đi cày. Chỉ có làm vì đam mê mới không thấy vất vả". Cũng theo Chính, CNTT là ngành cực kỳ rộng lớn và nhiều cơ hội vì CNTT giờ hiện hữu mọi nơi. Còn thu nhập dựa nhiều vào trình độ. "Bản thân mình đã chứng kiến một coder 'cứng' (lập trình viên giỏi về thuật toán, tư duy) lương còn cao hơn quản lý", Chính nói.
"CNTT không phải ngành vất vả, áp lực, lương thấp như nhiều người vẫn nghĩ. Có chăng, các cơ sở đào tạo nên đẩy mạnh hơn nữa hoạt động hướng nghiệp để sinh viên hiểu hơn về tương lai việc làm sau này. Các sinh viên CNTT cũng nên tìm hiểu kỹ về công việc mình sẽ theo đuổi, lựa chọn công ty có tầm nhìn phù hợp với định hướng của bản thân để phát triển", ông Phan Phương Đạt nhận định.
Theo VNE
Cạnh tranh trong tuyển dụng nhân lực CNTT ngày càng cao Ngành CNTT giữ vị trí dẫn đầu về nhu cầu tuyển dụng và là một trong 5 ngành có chỉ số cạnh tranh cao nhất đối với ứng viên, theo Vietnamworks. Nhân lực CNTT có thêm nhiều cơ hội và được săn đón nhiều hơn. Ảnh: Chungta Trang web tuyển dụng trực tuyến Vietnamworks vừa công bố Báo cáo chỉ số nhân lực...