Cần giải pháp mạnh tay “siết” tín dụng đen
Thời gian gần đây, tín dụng chính thức đã phát triển mạnh mẽ và rộng khắp trong cả nước, cơ bản đã đáp ứng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân, nhưng bên cạnh đó, tín dụng đen vẫn ngấm ngầm hoạt động và có xu hướng phát triển phức tạp, gây hậu quả nghiêm trọng và bất ổn trong xã hội. Trước thực trạng này, các cơ quan quản lý nhà nước tiếp tục có những giải pháp để siết tín dụng đen…
Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Quy mô tín dụng phi chính thức chiếm 15-20% tổng tín dụng của nền kinh tế
Khảo sát thực tiễn cho thấy, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu vay vốn của người dân và doanh nghiệp ngày càng gia tăng, trong lúc tín dụng chính thức chưa đáp ứng toàn bộ nhu cầu vay vốn của các đối tượng, thì hoạt động tín dụng đen vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp. Số liệu nghiên cứu năm 2013 của Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương cho thấy, các khoản vay tín dụng đen chiếm khoảng 30% tổng tín dụng thực do hệ thống ngân hàng cung cấp, tức vào khoảng 50 tỷ USD.
Báo cáo của Trung tâm Nghiên cứu thuộc ngân hàng BIDV năm 2018 cũng ghi nhận: Năm 2018 quy mô tín dụng phi chính thức tại Việt Nam hiện nay tương đương khoảng 15-20% tổng tín dụng của nền kinh tế; trong đó, quy mô tín dụng đen chiếm khoảng 30-35% tổng tín dụng phi chính thức, tương đương 6-8% tổng dư nợ nền kinh tế, khoảng 450-550 ngàn tỷ đồng”.
Đánh giá thực tế hoạt động tín dụng tại Việt Nam, Ngân hàng Thế giới cũng đưa ra nhận định rằng, có khoảng 70% dân số Việt Nam chưa tiếp cận vốn ngân hàng, số doanh nghiệp có khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức cũng chỉ mới chiếm 1/3 tổng số doanh nghiệp, đây là khoảng trống để tín dụng đen tồn tại và phát triển. Đến nay, tín dụng đen đã bùng phát và hoạt động ngấm ngầm hoặc công khai khắp 63 tỉnh thành trong cả nước. Sở dĩ hoạt động tín dụng đen phát triển tự phát ở Việt Nam, bởi do một số yếu tố tác động sau:
Video đang HOT
Thứ nhất, đối với người cho vay: Thông thường vì lãi suất cho các trung gian tín dụng đen vay rất cao (100%/năm đến 300% năm), gấp nhiều lần so với gửi ngân hàng, khoảng 50% đến 70%/năm. Vì hám lợi người cho vay sẵn sàng cung ứng vốn cho các trung gian vay mà ít quan tâm đến tư cách pháp nhân của tổ chức, nhân thân của cá nhân vay vốn.
Thứ hai, đối với người vay vốn: Do không đủ điều kiện để vay các loại hình tín dụng khác, trong khi điều kiện, thủ tục cho vay của loại hình tín dụng đen lại đơn giản, nhiều hạn mức vay, từ nhỏ đến lớn; hình thức vay đa dạng; giải ngân nhanh gọn, có thể nhận tiền ngay, phương thức trả nợ linh hoạt… Vì sự thuận tiện, người vay tiền chấp nhận tìm đến tín dụng đen, dù phải chịu mức lãi suất cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro…
Mạnh tay với tín dụng đen
Tín dụng đen trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay chiếm tỷ lệ khá lớn. Riêng năm 2018, chiếm khoảng 6-8% tổng dư nợ nền kinh tế, khoảng 450-550 ngàn tỷ đồng, đã đáp ứng một phần nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và đời sống.
Xét về mặt tích cực, tín dụng đen hoặc nguồn vốn không chính thức như một “liều thuốc cấp cứu”, giúp một số cá nhân và doanh nghiệp vượt qua “cơn nguy kịch” trong sản xuất và đời sống. Tuy nhiên, thực tế “tín dụng đen” không chỉ tồn tại ngoài xã hội mà luôn tìm cách len lỏi vào ngân hàng dưới nhiều dạng biến tướng. Điều này không chỉ khó khăn cho công tác đấu tranh giải quyết nạn “tín dụng đen” mà còn gây rủi ro cho chính các ngân hàng.
Để hạn chế và đẩy lùi tín dụng đen cần đẩy mạnh phát triển các loại hình tín dụng chính thống, tăng nguồn cung tín dụng, nới lỏng các điều kiện cho vay, mở rộng mạng lưới hoạt động từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi và vùng sâu, vùng xa. Cùng với nó là điều chỉnh khung pháp lý với những điều khoản chế tài đủ mạnh để răn đe các đối tượng huy động và cho vay tín dụng đen. Trước mắt, cần thực hiện một số giải pháp trọng tâm sau:
Thứ nhất, phát triển tín dụng chính thức cả chiều rộng và chiều sâu, thu hẹp thị phần của tín dụng đen. Cụ thể là Ngân hàng Nhà nước cần chỉ đạo các ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách xã hội và các tổ chức tín dụng tiếp tục tổ chức triển khai mạnh mẽ chính sách tín dụng phục vụ sản xuất và đời sống nhằm hạn chế sự bùng phát của tín dụng đen.
Thứ hai, tiếp tục siết chặt công tác kiểm tra phòng ngừa, đấu tranh xử lý tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động tín dụng đen; tăng cường giám sát các tổ chức tài chính tín dụng, tiệm cầm đồ, các hình thức hụi, họ… có biểu hiện cho vay tín dụng đen.
Thứ ba, tăng cường công tác truyền thông, phổ biến kiến thức tài chính cho người dân để họ không bị sập bẫy tín dụng đen. Thực tế hiện nay cho thấy, đa số những người vướng vào tín dụng đen là do họ thiếu thông tin về các chính sách tín dụng của Nhà nước, thiếu kiến thức tài chính…. Vì vậy, cần tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, phổ biến kiến thức tài chính tín dụng cho người dân.
Thứ tư, phát huy vai trò bảo lãnh tín chấp của các cơ quan đoàn thể, tổ chức chính trị – xã hội, hội nghề nghiệp cấp cơ sở trong việc cho vay và thu hồi vốn “tín dụng cấp thiết”.
Theo tapchitaichinh.vn
Quỹ bảo lãnh tín dụng đang ở đâu?
Cho vay tín chấp bắt đầu thu hút sự chú ý từ năm 2014, khi NHNN yêu cầu các NHTM cho vay không cần tài sản đảm bảo đối với các DN sản xuất kinh doanh. Cho đến nay rất nhiều NH liên tục tung ra các gói vay tín chấp cho DN, nhưng đa số NH đều cấp hạn mức vay tín chấp ở mức 1-2 tỷ đồng với nhiều điều kiện ràng buộc kèm theo.
Đến thời điểm này, VPBank là NH duy nhất cho vay tín chấp với hạn mức đến 5 tỷ đồng cho nhóm ngành chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ, dệt may, da, giày, sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất thiết bị điện, điện tử và sản phẩm quang học.
Thực ra NHNN đưa ra thông điệp tăng cho vay tín chấp nhưng không có nghĩa bắt buộc NHTM phải thực hiện. Yêu cầu tăng cường cho vay tín chấp là cách NHNN tạo ra chính sách mới để NH an tâm mở rộng phương thức cho vay. Còn khi áp dụng trên thực tế, NHTM sẽ tính toán khả năng tín chấp, hạn mức cho vay tùy thuộc khả năng giám sát dòng tiền đưa ra được sử dụng đúng mục đích, tránh tình trạng tín chấp nhưng DN dùng tiền đó để làm việc khác.
Mới đây, Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú, cho biết NHNN sẽ tiếp tục sửa Thông tư 39/2016 về việc cho vay của tổ chức tín dụng (TCTD). Hướng sửa đổi là giao quyền chủ động quyết định tín chấp hay thế chấp, tỷ lệ thế chấp, tín chấp ở mức nào cho NHTM và giám đốc chi nhánh các NH. Sửa đổi này cũng giải quyết tình trạng khi cho vay không thu được nợ, cán bộ NH phải chịu trách nhiệm.
Tuy nhiên, lãnh đạo các NHTM cũng chia sẻ dù có quy định mới, DN muốn vay tín chấp cũng phải tạo được lòng tin với NH về hiệu quả sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ và DN phải gắn bó lâu dài, NH có thể giám sát được dòng tiền của DN đó. Trong khi đó, các DNNVV hiện nay không gắn bó với 1 NH mà mỗi thời điểm vay 1 NH khác nhau để tận dụng các ưu đãi. Điều này đã cản trở việc theo dõi dòng tiền, đánh giá tín nhiệm để cho vay tín chấp của NH.
Đúng ra quỹ bảo lãnh tín dụng mới là chìa khóa mở ra cho vay tín chấp, là cầu nối hỗ trợ cho DNNVV tiếp cận nguồn vốn của các NH, TCTD phi NH, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân thông qua sự bảo lãnh của quỹ. Nhưng hoạt động của các quỹ này cho đến nay rất mờ nhạt. Đáng nói hơn, DN tìm đến các quỹ này rất khó đáp ứng nổi các điều kiện để được bảo lãnh.
Yên Lam
Theo saigondautu.com.vn
Cung - cầu vốn khó gặp nhau, ngân hàng phải chấp nhận lãi suất cao? Một lần nữa kể từ đầu năm, trong hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam có hiện tượng cung - cầu vốn khó gặp nhau giữa các thành viên; bên vay phải chấp nhận lãi suất cao. Một lượng vốn lớn được trả lại và chảy ra thị trường, khớp với diễn biến tín dụng tăng mạnh trong nửa cuối tháng...