Cần đánh giá nguyên nhân xảy ra sạt lở ở miền trung trên các cứ liệu khoa học
Theo Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà, cơn bão số 9 vừa rồi là mạnh nhất trong 20 năm qua, cùng với lượng mưa đã vượt qua các chỉ số đo lịch sử, tạo ra tổ hợp các dạng thiên tai.
Do đó, nếu dựa trên cơ sở khoa học thì không nên kết luận các vụ sạt lở vừa qua tại Rào Trăng 3, Trà Leng… là do thủy điện.
Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà.
Phát biểu tại phiên thảo luận của Quốc hội ngày 5-11 về các vấn đề liên quan tới thiên tai, bão lũ thời gian gần đây, Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho biết trong bốn cơn bão vừa qua thì cơn bão số 9 là mạnh nhất trong 20 năm qua, hết sức nguy hiểm. Cùng với đó là trạng thái vùng áp suất duy trì rất lâu ở miền trung đã tạo ra lượng mưa vượt qua các chỉ số đo lịch sử, trong đó có những ngày lượng mưa như ở Quảng Nam lên đến trên 500mm/ngày.
“Chúng ta tưởng tượng là nửa mét nước mỗi ngày, và có những nơi kéo dài trong suốt giai đoạn đó. Tổng lượng mưa được tính toán vượt qua con số từ 2.000 đến 4.000 mm. Lượng mưa đấy có thể nói là trời đổ nước xuống chứ không phải là mưa nữa”, Bộ trưởng Trần Hồng Hà nói.
Theo Bộ trưởng, đây là một vấn đề lịch sử nên chưa có số liệu để tính toán được. Số liệu hết sức khách quan ở các vùng sạt lở này (các khu vực như ở khu kiểm lâm 67 Phong Điền, Cha Lo, Minh Hóa; khu vực Binh đoàn 337 Hướng Hóa, Trà Leng, Trà Vân, Nam Trà My, Quảng Nam; Phước Lộc, Phước Sơn; vùng sạt lở Rào Trăng 3) cho thấy đây là những khu vực ở độ cao từ 300 đến 900m.
Video đang HOT
“Nên nếu chúng ta kết luận là do thủy điện thì ở đây chưa có thủy điện, và thủy điện Trà Leng 3 hiện nay chưa xây dựng. Tôi muốn nói là chúng ta không nên đưa ra những suy đoán mà phải dựa trên cơ sở khoa học”, Bộ trưởng nêu quan điểm.
Bộ trưởng cho biết, yếu tố chung là toàn bộ khu vực này nằm trong khu vực đứt gãy địa chất và các đứt gãy này thời gian vừa qua đã có sự cà sát và tạo ra độ phong hóa từ 9 đến 16m. Cũng quá trình đó thì độ phong hóa này đã tạo ra đất, cát, sét, sỏi với độ gắn kết rất thấp và nằm trên địa hình đồi núi dốc, trọng lực trượt và độ dốc của sông, suối đều theo hình chữ V, vì thế luôn luôn nằm trong một động thái địa chất kiến tạo, đó là đứt gãy do tai biến địa chất đã hình thành.
“Quá trình địa chất đó luôn làm cho đất đá bị nát vụn, cộng thêm vấn đề ngoại sinh là một lượng mưa lớn, người ta tính trong vòng khoảng 5 đến 10 ngày mà lượng mưa 100mm thì tất cả những khu vực này đều dẫn đến nguy cơ sạt lở”, Bộ trưởng lý giải.
Bên cạnh đó, theo Bộ trưởng, lượng mưa mỗi ngày 500mm cũng làm gia tăng trọng lực trượt của đất và phá vỡ sự gắn kết của các mảng trượt.
“Sự kết hợp của các yếu tố cấu thành tổ hợp các thiên tai, từ sạt lở đất nhỏ gắn với đồi núi dốc và các sông suối hẹp tạo nên những biển hồ nước và kích hoạt các hoạt động địa chất nội sinh đó là hoạt động trượt đã xảy ra sạt lở đất. Qua số liệu ban đầu chúng tôi có đánh giá như vậy”, Bộ trưởng cho biết.
Phiên thảo luận của Quốc hội ngày 5-11.
Cũng theo Bộ trưởng, về vai trò của các hồ chứa tại các tỉnh miền trung mặc dù không có khả năng để cắt lũ nhưng có sự điều tiết rất nhịp nhàng, chặt chẽ và khoa học để thực hiện hai chức năng là tích nước phát điện và cung cấp nước cho mùa khô. Tuy không được thiết kế quy mô và dung lượng để cắt được đỉnh lũ, nhưng các hồ chứa này có thể cắt giảm được từ 30% đến 70% nguy cơ và độ ngập ở hạ lưu.
“Chúng ta bổ sung được nước trong mùa cạn từ 30 đến 50%. Vào mùa khô hạn, lượng nước trên các dòng sông thường mất đi khoảng 80- 90%, đặc biệt là miền trung. Nhu cầu tất yếu, chúng ta cần phải có các hồ chứa và các hồ chứa đều đặt mục tiêu này lên hàng đầu”, Bộ trưởng cho biết.
Theo Bộ trưởng, từ năm 2009, Đảng và Nhà nước đã quan tâm và chỉ đạo tiến hành hai chương trình nghiên cứu. Một là về dự báo lũ ống, lũ quét các tỉnh miền núi, Tây Nguyên và miền trung. Chương trình thứ hai triển khai từ năm 2012 liên quan đến điều tra tai biến địa chất nhằm dự báo, cảnh báo sạt lở ở các khu vực vùng núi, Tây Nguyên, Tây Bắc và miền trung.
“Chúng ta cần phải có nghiên cứu độc lập, lúc này còn quá sớm nhưng cho thấy rằng hiện trạng của các điểm vừa rồi xảy ra là tổ hợp các dạng thiên tai”, Bộ trưởng nói.
Ứng phó với bất thường của thời tiết
Tại buổi làm việc của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc với các bộ, ngành và bốn địa phương gồm: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định về khắc phục hậu quả sau bão số 9 và tìm kiếm cứu nạn tại tỉnh Quảng Nam chiều 1-11 cũng như trong buổi thảo luận tổ tại Quốc hội về tình hình kinh tế - xã hội sáng 2-11 vừa qua, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định, đặc thù địa chất miền trung kết cấu đất sét, gặp mưa quá lớn trong nhiều ngày gây sạt lở, vì thế không thể đổ hết lỗi cho thủy điện.
Lực lượng chức năng tìm kiếm, cứu hộ các nạn nhân trong vụ sạt lở tại xã Trà Leng, huyện Nam Trà My (Quảng Nam).
Cần đánh giá toàn diện, khoa học
Theo Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà, hầu hết các vụ sạt lở ở miền trung, từ Quảng Trị, Thừa Thiên Huế đến Quảng Nam, đều có yếu tố nội sinh rất rõ ràng. Bản đồ dự báo sạt lở cho thấy những vùng này là nơi trước đây từng xảy ra sạt lở và những vùng này đều nằm trên cấu trúc có dải đứt gãy đã được xác định. Mặt khác, những đứt gãy này cùng hoạt động kiến tạo cho thấy, đất đá hình thành vùng phong hóa rất lớn, có nơi dày 15 đến 16 m, khiến đất đá vỡ vụn, gồm có cát, bùn và đất sét. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã và đang triển khai đề án nghiên cứu về lũ quét và nguy cơ sạt lở đất trên địa bàn các tỉnh vùng núi có nguy cơ cao. Trong đó, xây dựng bản đồ cảnh báo sạt lở với tỷ lệ 1/50.000, tập trung ở miền núi phía bắc, Tây Nguyên và miền trung. Bản đồ đã được giao cho các địa phương để điều chỉnh quy hoạch và cung cấp cho các Đài khí tượng - thủy văn để đưa ra dự báo liên quan mưa, bão. Tuy nhiên, hạn chế hiện nay là tỷ lệ 1/50.000 cho nên rất khó để đưa vào dự báo chi tiết vì đòi hỏi nghiên cứu kỹ về thổ nhưỡng, địa chất công trình, thủy văn, quy luật liên quan, nhất là lượng mưa thực tế thời gian đó. Trong những ngày qua, khu vực miền trung liên tục chống chọi bốn cơn bão, một áp thấp nhiệt đới kèm lượng mưa kỷ lục 250 đến 300 mm, có ngày mưa đến 500 mm. Những khu vực có cấu trúc địa chất tương tự, chỉ cần lượng mưa 100 mm/ngày đã có thể xảy ra hiện tượng sạt lở đất, do biến động cực đoan của khí hậu và thời tiết cộng sinh thêm.
Liên quan vấn đề tình trạng sạt lở liên tục tại miền trung, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng khẳng định: "Mưa to lên tới hàng nghìn mi-li-mét thì cả cánh rừng bạt ngàn cũng bị sạt, không nên đổ hết lỗi cho thủy điện. Đơn cử, vụ sạt lở ở Trà Leng, ở đó không có thủy điện nào cả, ở Hướng Hóa (Quảng Trị) cũng vậy", Thủ tướng nhấn mạnh. Có nhiều nguyên nhân gây nên mưa lũ và sạt lở đất ở miền trung, nhưng cần lưu ý đặc thù của địa chất khu vực này là kết cấu đất sét, mưa nhiều sẽ gây ra sạt lở. Vì thế, cần phải đánh giá đầy đủ, toàn diện hơn trên các cứ liệu khoa học chặt chẽ để có biện pháp hữu hiệu, thúc đẩy tăng trưởng xanh, hạn chế tác động của con người đến đất rừng. Đối với vấn đề phát triển thủy điện nhỏ, Thủ tướng nhấn mạnh phải xem xét để hạn chế phá rừng, tới đây những công trình nào xây dựng liên quan đất rừng phải trình Quốc hội xin ý kiến. Thí dụ một số công trình hồ chứa ở Ninh Thuận, Nghệ An lấy ít đất rừng nhưng chứng minh được hiệu quả, giải quyết đời sống, nước uống cho sinh hoạt, nông nghiệp, có thể triển khai. Các công trình thủy điện nhỏ lấy đất rừng phải hết sức thận trọng. Thực tế, tính dị thường và cực đoan của thời tiết được Chính phủ đề cập nhiều lần thời gian qua. Báo cáo của Ban Chỉ đạo T.Ư về phòng, chống thiên tai cho thấy, tại một số khu vực miền trung có lúc lưu lượng mưa đạt đến 2.000 mm, thậm chí 3.000 mm.
Theo Bộ trưởng Công thương Trần Tuấn Anh, cần nhìn nhận một cách nghiêm túc và khách quan từ các câu chuyện thiên tai liên quan trực tiếp đến môi trường, từ đó có các chính sách đặc biệt. Cần có nghiên cứu kỹ hơn của các bộ, ngành với tính dị thường, cực đoan của thời tiết để có biện pháp đối phó. Quá trình vận hành hồ chứa, thủy điện ở các địa phương thời gian qua triển khai rất tốt. Quy trình vận hành đơn hồ và liên hồ phải được các địa phương quán triệt và điều tiết chủ đầu tư thực hiện nghiêm túc. Bộ Công thương kiến nghị các địa phương trong thời gian tới phải rà soát tất cả các công trình thủy điện, các công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp để bảo đảm phương án phòng, chống thiên tai. Đồng thời, cần mời chuyên gia khảo sát, đánh giá nơi sinh sống có địa hình nguy hiểm phức tạp để từ đó có phương án di dời hợp lý. Ngoài ra, phải tạm dừng xây dựng các công trình thủy điện trong thời gian bão, lũ để bảo đảm an toàn cho con người.
Bảo đảm an toàn hồ đập thủy điện
Thời gian gần đây, có một số ý kiến cho rằng hồ đập thủy điện ở miền trung và một số địa phương xả lũ gây ngập lụt là chưa chính xác. Qua số liệu quan trắc và khí tượng thủy văn cho thấy, tại tỉnh Quảng Nam, hồ thủy điện Đắk Mi 4 dung tích lớn, thời điểm đỉnh lũ ngày 28-10, lượng nước về hồ lên 17.000 m3/giây, nhưng chính hồ Đắk Mi 4 đã điều tiết, lưu lượng xả thực tế chỉ 11.000 m3/giây, giúp cắt lũ hơn 55%, nếu không đỉnh lũ về ngày 28-10 sẽ gây ngập lụt trắng toàn vùng hạ lưu. Các tỉnh miền trung đã nỗ lực trong việc điều tiết hồ chứa, giúp giảm lũ lớn cho hạ lưu, dù chưa thể cắt đỉnh lũ. Thực tế kiểm tra, tất cả hồ đập thủy điện đều thực hiện quy trình xả lũ và vận hành liên hồ, đơn hồ theo đúng quy định, có hồ góp phần giảm 30%, có nơi giảm 80% lưu lượng lũ.
Hiện, cả nước có hơn 400 công trình thủy điện nhỏ được đưa vào vận hành khai thác với dung tích 56 tỷ mét khối nước, chiếm 86% tổng dung tích hồ chứa nước trên địa bàn cả nước. Các cơ quan chức năng đã xây dựng đầy đủ quy định quản lý nhà nước trong công tác bảo đảm an toàn hồ đập thủy điện cũng như vận hành công trình hồ thủy điện cả liên hồ, đơn hồ. Toàn bộ 401 đập đã được chủ đập thực hiện theo đúng quy định về báo cáo hiện trạng an toàn; tất cả các đập thực hiện đúng quy định về bảo trì, kiểm tra, sửa chữa,... Từ nhiều năm trước, Bộ Công thương đã ban hành Kế hoạch hành động của ngành Công thương triển khai Nghị quyết số 62/2013/QH13 của Quốc hội và Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ về quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng, vận hành khai thác công trình thủy điện. Lãnh đạo Bộ Công thương cho biết, đến nay, công tác rà soát về quy hoạch, đầu tư xây dựng và vận hành khai thác các công trình thủy điện trên địa bàn cả nước đã cơ bản hoàn thành, đáp ứng các yêu cầu đề ra theo Nghị quyết 62 của Quốc hội. Kết quả rà soát liên tục qua tám năm, từ năm 2012 đến 2019 đã xem xét, loại bỏ khỏi quy hoạch tám dự án thủy điện bậc thang, 471 dự án thủy điện nhỏ và 213 vị trí tiềm năng thủy điện.
Cũng cần nói thêm rằng, trước trận mưa lũ lịch sử, ngày 8-9 vừa qua, Bộ Công thương đã ban hành Công văn số 6650/2020/BCT-ATMT về bảo đảm an toàn công trình và hạ du hồ chứa thủy điện gửi các Sở Công thương có công trình thủy điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, các chủ sở hữu, đơn vị quản lý vận hành đập hồ chứa thủy điện. Hằng ngày, các đơn vị quản lý vận hành hồ chứa thủy điện đã cập nhật thông tin thủy văn hồ chứa và báo cáo tới các cơ quan liên quan theo đúng quy trình vận hành liên hồ chứa đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Bộ Công thương đã và đang rà soát, đánh giá lại một lần nữa tác động của thủy điện trong bối cảnh biến đổi khí hậu mới, rà soát lại quy hoạch, tăng cường kiểm tra đánh giá công tác vận hành liên hồ chứa. Tập đoàn Điện lực Việt Nam và Bộ Công thương sẽ tiếp tục rà soát lại tổng thể thủy điện nhỏ hiện nay, kể cả thủy điện trước đây đã dừng lại để công khai, minh bạch có bao nhiêu công trình thủy điện nhỏ và những công trình này ở địa điểm nào, đang hoạt động ra sao,... để người dân giám sát.
Lực lượng tìm kiếm rút khỏi thủy điện Rào Trăng 3 tránh bão Do ảnh hưởng của bão số 9, lực lượng tìm kiếm các công nhân mất tích tại thủy điện Rào Trăng 3 phải rút ra ngoài để đảm bảo an toàn. Tối 27-10, UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế cho biết, do ảnh hưởng của bão số 9, lực lượng tìm kiếm các công nhân mất tích tại thủy điện Rào Trăng 3...