Cái chế.t bất ngờ của người đàn ông nghèo (Kỳ cuối)
Bác sĩ William đã dành hết quãng thời gian của mình trong bệnh viện tâm thần để biên soạn cuốn từ điển Oxford nổi tiếng thể giới.
Phiên tòa xét xử William diễn ra tháng 4/1872 tại Kingston Assizes. Tòa tuyên án William vô tội do thực hiện hành vi trong tình trạng vô thức. Sau phiên tòa, William được chuyển đến bệnh viện tâm thần Broadmoor.
William là bệnh nhân điều trị lâu nhất tại đây. Do những đóng góp trước đây trong quân đội, William được ưu tiên ở trong hai buồng giam thông với nhau. Những lúc tỉnh táo, William vẫn nghiên cứu và đọc sách. Trong buồng giam của anh có một kệ sách lớn, một bộ bàn ghế, và những dụng cụ mĩ thuật để anh có thể vẽ. Quản lý bệnh viện còn cho người tới dọn dẹp phòng giam của William thường xuyên.
Mặc dù có những ưu đãi đặc biệt những William không được rời khỏi bệnh viện. Các chuyên gia cho rằng anh khó có khả năng thích nghi với cuộc sống bên ngoài.
William đã viết thư cho vợ George, xin lỗi về điều kinh khủng anh gây nên cho gia đình họ và gửi tiề.n cho gia đình này thường xuyên để giảm bớt gánh nặng về tài chính.
Vợ George đã tha thứ cho William, nhiều lần cô cùng bọn trẻ tới bệnh viện thăm William. Món quà cô thường xuyê mang đến cho William là những cuốn sách và tạp chí.
Những ngày đầu năm 1880, khi đọc một cuốn tạp chí do vợ George gửi vào, William biết được thông tin một nhà nghiên cứu đang tìm những người có khả năng cho việc biên soạn cuốn từ điển Oxford. William cảm thấy hững thú với việc này, anh muốn đóng góp điều gì đó cho xã hội để chuộc lại sai lầm của mình.
Việc biên soạn cuốn từ điển nổi tiếng này bắt đầu từ năm 1857, do Tiế sĩ Richard Chenevis đề xuất ý tưởng, nhưng sau một thời gian dài, cuốn từ điển vẫn chưa hoàn thiện và thiếu nhiều thông tin. Công việc này được coi là tẻ nhạt và tốn nhiều thời gian. Sự quan tâm của thành viên tham gia biện soạn mất dần. Dự án đã có thời điểm được coi là không thể hoàn thành được.
Năm 1879, việc biên soạn được giao cho James Murray, một giáo viên dạy ngữ văn người Scotland. James đã thiết kế riêng cho mình một phòng làm việc để tập trung vào công việc. Ông cũng tranh thủ sự giúp đỡ của những người quan tâm và muốn đóng góp. Thông tin tìm kiếm tình nguyện viên mà William đọc được chính là do James đăng tải.
William đã được James nhận vào dự án của mình. William bắt tay ngay vào công việc và dành hết quãng đời còn lại của mình cho cuốn từ điển này.
Khối lượng công việc vô cùng nhiều, James đã mất gần một năm để có thể xây dựng được hệ thống từ, bắt đâu từ “A” đến “Ant”. Dự kiến phải mất hơn 20 năm để có thể hoàn thiện dự án. Nhưng trên thực tế, cuốn từ điển đó đã mất gần nửa thế kỷ để có thể hoàn thiện đến chữ “Z”.
Video đang HOT
Kể từ khi làm việc với bác sĩ William, công việc của James có tiến triển hơn rất hiều. James ấn tượng với kết quả nghiên cứu của William, nhanh chóng và có độ chính xác cao.
Hơn 10 năm khi William và James cùng nhau làm việc, tháng 1/1991, James Murray quyết định đến Broodmoor thăm William. Họ cùng nhau ăn trưa, trao đổi thông tin với nhau ngay tại phòng giam của William, James cảm thấy William là một con người tài năng và khá thú vị. James hứa sẽ quay lại thăm William.
Tình bạn của hai người trở nên thân thiết hơn. Hình ảnh hai người đàn ông đam mê với công việc ngồi cùng nhau trong phòng giam của William để biên soạn cuốn từ điển nối tiếng đã khiến nhiều người khâm phục.
Bộ từ điển Oxford
Thời gian này, James nhận thấy tinh thần và sức khỏe của William xấu đi. William ngày càng rơi vào trạng thái hoang tưởng nặng. Ông luôn tưởng tượng ra những người lính xuất hiện cạnh mình mỗi khi đêm xuống.
James thường xuyên đến Mỹ hơn để chăm sóc người bạn của mình. Ông cho rằng việc bị giam lỏng trong bệnh viện mà không có sự liên hệ với người thân đã khiến tinh thần của William xấu đi, đó là một sự bất công đối với William.
Năm 1902, William 68 tuổ.i, ông là người điều trị lâu dài nhất tại Broadmoor. Bệnh viện Broadmoor có giám đốc mới, tiến sĩ Bryan. William không thích người này bởi ông khá cộc cằn với những người điều trị và bị giam tại đây. Điều này đã khiến tình trạng của William thực sự xấu đi. Ông thường xuyên bỏ ăn và chỉ chăm chú vào công việc biên soạn từ điển của mình.
Tháng 12/1902, trong một cơn tuyệ.t vọn.g và giẫn dữ, William đã dùn.g da.o cắ.t bỏ dươn.g vậ.t của mình. Không ai biết lý do tại sao William hành động như vậy.
Sau hơn một tháng điều trị, sức khỏe của William tốt hơn, ông được chuyển đến một cơ sở điều trị khác gần với gia đình mình.
Ngày 26/7/1915, James Murray qua đời sau một cơn đau tim. Ông đã dành 35 năm cho việc biên soạn cuốn từ điển.
Năm 1918, William mắc chứng mất trí nhớ. Một năm sau, ông được chuyển đến bệnh viện tâm thần dành cho người cao tuổ.i ở Hartford, Connecticut.
Ngày 26/3/1920, William Chester Minor qua đời ở tuổ.i 85. Ông được chôn cất tại nghĩa trang Haven Evergreen.
Giống như James Murray, William không thể đợi đến khi cuốn từ điển Oxford được xuất bản.
8 năm sau đó, cuốn từ điển Oxford nổi tiếng được xuất bản với hơn 400.000 từ và cụm từ. Đây được coi là một kiệt tác đáng chú ý nhất của thế kỷ 20
Theo Khampha
Vụ trộm làm thay đổi luật pháp nước Mỹ (Kỳ 1)
Quá nghèo để có thể thuê luật sư, một người đàn ông 51 tuổ.i đã tự bào chữa cho mình khi bị cáo buộc liên quan đến một vụ trộm.
Clarence Earl Gideon, 51 tuổ.i
Ngày 3/6/1961, Clarence Earl Gideon, 51 tuổ.i bị bắt vì nghi ngờ đột nhập vào một cửa hàng ở Florida. Quá nghèo để có tiề.n thuê luật sư, Clarence đã tự bào chữa cho mình tại tòa, và nhận mức án cao nhất cho khung hình phạt của tội trộm cắp.
Không chấp nhận bản án đó, Clarence đã dành nhiều thời gian nghiên cứu về những điều luật có liên quan và nộp đơn kháng cáo lên Tòa án Tối cao với hi vọng thay đổi được bản án của mình và của hàng ngàn người đang bị kết án tương tự vào thời điểm đó.
8h sáng ngày 3/6, khi Ira Strickland, chủ cửa hàng đến mở cửa, cảnh sát đã có mặt ở đó.
Cảnh sát Deull Pitts thông báo với Ira Stickland rằng quán của ông đã bị kẻ trộm đột nhập trong đêm. Tên trộm đã phá vỡ một cánh cửa kính và trèo vào bên trong. Ira Trickland không quá bất ngờ khi nghe thông tin này.
Cửa hàng của Ira Trickland nằm ở một góc cảng, gần khu nhà máy giấy ở vùng ngoại ô tồi tàn của thành phố Panama, Florida.
Không mất quá nhiều thời gian để Ira Strickland xác định được tên trộm đã lấy đi những gì bên trong cửa hàng, 65 đô la tiề.n mặt, hầu hết là tiề.n xu trong các máy chơi game tự động, 12 chai bia, 12 lon cô ca và một chai rượu vang rẻ tiề.n gần hết. Tổng giá trị những thứ bị mất khoảng 100 đô la.
Cảnh sát Deull Pitts cho biết, một thanh niên 22 tuổ.i tên là Henry Cook, sống ở gần đấy đã nhìn thấy tên trộm.
Nhân viên cảnh sát của thành phố Panama trong khi đi tuần đã thấy cửa chính của cửa hàng đã mở và Henry Cook ở gần đấy. Nghi ngờ có điều bất thường, nhân viên này đã hỏi Henry một vài thông tin, Henry cho biết anh vừa ở nơi làm về, hôm qua do uống say nên giờ anh mới về nhà.
Henry cho biết thêm, anh nhìn thấy có bóng người di chuyển bên trong cửa hàng nên đứng lại quan sát. Một người đàn ông rời khỏi cửa hàng, tay xách một chai rượu. Người này đến quầy điện thoại gần đó gọi điện. Một chiếc taxi xuất hiện, người đàn ông này nhanh chóng rời đi.
Henry nhận ra người đàn ông đó là Clarence Gideon, người đàn ông gầy gò, khuôn mặt hốc hác, nhân viên của cửa hàng. Clarence sống gần khách sạn Bay Harbor, với mức giá thuê 6 đô la một tuần.
Một giờ sau đó, cảnh sát đã tìm thấy Clarecen ở một quán rượu trung tâm thành phố Panama. Clarence bị bắt giữ, trong túi có hơn 25 đô la tiề.n xu.
Clarence bị cáo buộc đã đột nhập vào cửa hàng của Ira Strickland và lấy đi một số đồ đạc, kể cả số tiề.n xu trong những máy chơi tự động. Tuy nhiên, Clarence khẳng định số tiề.n xu trong túi mình là tiề.n thưởng do ông chơi được, không phải do lấy trộm.
Quá nghèo để có thể thuê luật sư riêng cho mình, Clarence quyết tâm chống lại những lời cáo buộc từ phía cảnh sát. Ở tuổ.i 51, Clarence không còn lạ gì những phòng xử án và ông biết những kiến thức về pháp luật của mình đủ để ông thanh minh trước tòa.
Thẩm phán Robert McCrary cho biết, theo luật pháp bang Florida, Clarence không thể tự bào chữa cho mình trong phiên tòa này.
Clarence phản đối điều đó, "Tòa án Tối cao Hoa kỳ cho phép tôi có quyền được đại diện cho mình như một luật sư."
Quyết định của thẩm phán và việc tự chứng minh mình vô tội của Clarence trong vụ án này đã giúp cho 949.600 trường hợp tương tự Clarence thoát án tại các bang ở Mỹ năm 1961.
Ngày 4/8, hai tháng sau khi đột nhập vào cửa hàng của Ira Strickland, Clarence phải đối mặt với phiên tòa xét xử cho tội danh trộm cắp. Clarence tự đại diện cho mình. "Đối thủ" của ông là công tố viên William Harris.
Thấm phán McCrary làm chủ tọa phiên tòa, một đoàn bồi thẩm gồm 6 thành viên. Hai người được triệu tập đến phiên tòa theo công tố viên Harris, Ira Strickland, chủ cửa hàng và nhâ.n chứn.g Henry Cook.
Theo lờ.i kha.i của Ira, chính anh là người đã khóa cửa cửa hàng vào nửa đêm ngày 2/6 và quay lại đó lúc 8h. Anh xác nhận khóa cửa chính đã bị mở và một số tiề.n xu, đồ đạc trong cửa hàng mình đã bị lấy đi.
Henry Cook lặp lại lờ.i kha.i như anh đã khai nhận vào sáng sớm ngày 3/6. Anh thấy Clarence bước ra khỏi cửa hàng sáng sớm hôm đó với một chai rượu vang trên tay, đến quầy điện thoại gần đó gọi điện, sau đó lên taxi đi mất.
Theo Khampha